• Nếu đây là lần đầu tiên bạn ghé thăm Trang nhà Chút lưu lại, xin bạn vui lòng hãy xem mục Những câu hỏi thường gặp - FAQ để tự tìm hiểu thêm. Nếu bạn muốn tham gia gởi bài viết cho Trang nhà, xin vui lòng Ghi danh làm Thành viên (miễn phí). Trong trường hợp nếu bạn đã là Thành viên và quên mật khẩu, hãy nhấn vào phía trên lấy mật khẩu để thiết lập lại. Để bắt đầu xem, chọn diễn đàn mà bạn muốn ghé thăm ở bên dưới.

Thông báo Quan trọng

Collapse
No announcement yet.

RÊU PHONG TRÊN NGHĨA TRANG CÁC THÁI GIÁM

Collapse
X
 
  • Filter
  • Time
  • Show
Clear All
new posts

  • RÊU PHONG TRÊN NGHĨA TRANG CÁC THÁI GIÁM

    RÊU PHONG TRÊN NGHĨA TRANG CÁC THÁI GIÁM


    Có lẽ ,họ là lớp người chiếm số lượng ít nhất (và không thể xác định) trong đời sống xã hội Phong kiến . Họ không thuộc về bất kỳ một giai cấp Xã hội nào , bởi sinh ra để làm nô bộc , nhưng ân sủng và quyền hạn đạt được rất lớn , đôi khi còn lấn át cả các bậc Công hầu .

    Họ là các Thái Giám . Suốt đời sống trong cung cấm nhưng không được bàn dự việc triều đình , chẳng thuộc hàng quan lại , cũng không mấy khi ló mặt ra đường , tên tuổi họ không thuộc về chính sử . Không có con cái nối dõi , số phận còn bắt buộc họ phải chối bỏ họ hàng thân quyến , nên khi lìa đời họ cũng chẳng có người khói hương . Sinh ra trong khiếm khuyết , các thái giám ra đi trong quên lãng . Vết tích duy nhất về họ còn lưu lại đến ngày nay là vài mươi ngôi mộ ẩn sau 4 bức tường rêu phủ nằm trong khuôn viên chùa Từ Hiếu ( TP Huế), một ngôi chùa còn được gọi bằng cái tên khác là " chùa Thái Giám " ..

    CẤM CUNG CỐ SỬ

    Người đời , nhất là cánh đàn ông , thường bảo "sướng như vua " để bày tỏ lòng ao ước và nỗi … ghen tị về một sự hưởng thụ vương giả khi bên cạnh có hàng trăm cung tần , mỹ nữ chờ đợi và chiều chuộng .Thế nhưng , những ông vua thực sự thì chưa chắc đã nghĩ thế . Thậm chí đời sống đế vương trong chốn hậu cung đối với họ còn là nỗi khổ ải , cực hình . Vua Gia Long ( 1762-1820) ,người có tới hàng chục năm bôn tẩu , chinh chiến , trước khi đoạt được quyền lực và ngai vàng (1802), khi lên làm vua có hơn 100 phi thứ cung tần , đã từng phải ngữa mặt than : " Trị nước còn dể dàng hơn,không khó nhọc bằng trị chốn nội cung của mình " .Trong một lần "giãi bày tâm sự "riêng tư với J.B . Chaigneau , một cận thần người Pháp của mình ,vua Gia Long đã lắc đầu ngao ngán :" Khanh không thể tưởng tượng cái gì đang đợi trẫm ở đấy (chốn hậu cung) đâu . Vào trong đó trẫm phải gặp một lũ quỷ sứ thật sự . Chúng cãi vả nhau, cấu xé nhau , phỉ báng nhau và sau đó tất cả cùng chạy đến cầu xin trẫm phân xử … Trẫm sẽ ở giữa một đám yêu phụ làm trẫm điếc tai , nhức óc ".

    Tuy khốn khổ vì số lượng "các bà " quá dư thừa , quá nhiễu sự nhưng vua Gia Long cũng như tất cả các ông vua khác của triều Nguyễn vẩn không thể loại bỏ bớt số lượng phi tần , bởi lẽ, họ đều là con gái của các quan Đại thần đang nắm giữ các vị trí " lương đống " của quốc gia , được vua đồng ý " nạp thiếp" như một lời hứa bảo đảm địa vị chính trị hoặc một thứ ân sủng .Theo thời gian , dù tuổi tác của vua ngày một tăng thì hằng năm , các vị đại thần vẩn tiếp tục đem dâng các cô con gái xinh đẹp vừa chớm tuổi cập kê của mình lên cho "ngài ngự" . Để bảo đảm không xảy ra bất hòa , hiềm khích , chia rẽ giữa đám trọng thần , các bậc đế vương lại đành nhắm mắt chấp nhận thêm một mớ " quỷ sứ " vốn đã đầy kín trong tam cung , lục viện .

    Trong thực tế,các hoàng đế triều Nguyễn như Gia Long,Minh Mạng ,Thiệu Trị ,Tự Đức, Đồng Khánh …mổi người đều có hơn 100 phi tần . Trong số này ngôi "quán quân" thuộc về vua Minh Mạng .Ông có đến 236 bà vợ . Ngay sau khi vua Minh Mạng đăng quang (14/02/1820 ) quan ngự y Lê Quốc Chước đã chế ra một thứ rượu bổ có công dụng giúp vua " nhất dạ ngũ giao tam hữu tử " và kích thích tiêu hoá , bồi bổ sức khoẻ . Công dụng của thứ thuốc bổ này như thế nào , người phàm không phải là vua ,không được dùng e khó biết nhưng thật sự là vua Minh Mạng đã có đến 142 hoàng tử và công chúa . Vua Đồng Khánh cũng có trên 100 bà vợ nhưng chỉ hạ sinh được 4 hoàng tử và 2 công chúa . Vua Tự Đức thậm chí còn đáng buồn hơn , hơn 100 bà vẩn không có con . Ông phải nuôi ba người con nuôi ,sau này đều lên ngôi hoàng đế .Người thứ nhất là Ưng Chân (1852-1885) ,con trai của Hường Y (Thoại Thái Vương ), lên ngôi trở thành vua Dục Đức , ở ngôi chỉ 3 ngày đã bị Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường truất ngôi và bức tử . Người thứ hai là Ưng Đăng (1869-1884) con thứ ba của Hồng Cai (Kiến Thái Vương) làm vua lấy niên hiệu là Kiến Phúc ,ở ngôi 8 tháng thì bị bệnh ,băng hà .Người thứ ba là Ưng Kỷ (1864-1889),con trai trưởng của Hồng Cai,sau khi vua Hàm Nghi bôn tẩu (14/09/1885 ),được người Pháp đưa lên làm vua ,lấy hiệu là Đồng Khánh ,ở ngôi được 4 năm thì mất.

    THÂN PHẬN NHỮNG KẺ MẶC ÁO XANH

    Để tổ chức quản lý đám cung tần mỹ nữ quá đông đúc và rắc rối nơi hậu cung , một lớp thái giám đã được đưa vào Tử Cấm Thành .Công việc của họ là hầu hạn nhà vua trong các việc liên quan đến chuyện gối chăn . Họ phải sắp xếp thứ tự,lên danh sách các phi, tần và sắp xếp lịch, giờ để vua " ngự dâm ", ghi chép lại danh tánh các bà phi đó cùng với giờ giấc , ngày tháng cẩn thận để sau này nếu bà phi có con với vua sẽ được xác nhận , tránh sự nhầm lẩn tai hại có thể xảy ra . Một số thái giám khác được điều sang phục dịch , hầu hạ các cung phi goá bụa của vua đời trước tại các lăng tẩm .

    Để phân biệt với lớp quan lại khác , họ được cấp một loại trang phục riêng bằng lụa xanh , dệt hoa trước ngực , đội một thứ mũ cứng hoặc khăn đóng .Khi sống, họ lo phục dịch trong Tử Cấm thành hoặc lăng tẩm . Đến khi già yếu , họ buộc phải rời Đại Nội , ra dưỡng bệnh hoặc nằm chờ chết tại một tòa nhà ở phía bắc Hoàng thành , gọi là cung Giám Viện, không được chết cùng nơi vốn là chốn dành riêng cho vua chúa hoặc Hoàng gia.

    Dưới triều Gia Long, các thái giám vẩn được tham gia quốc sự . Ngay từ khi mới xưng vương ở miền Nam(1780) Nguyễn Ánh đã đặc biệt tin cẩn , cất nhắc một thái giám tên là lê Văn Duyệt .Phò Gia Long lập đưọc nhiều công trạng nên khi Gia Long lên ngôi , Lê Văn Duyệt được phong Tổng Trấn Gia Định thành , thực quyền như một vị phó vương tại phương Nam.Theo bài viết của Công sứ A. Laborde đăng trong tập 5 bộ B.A.K.H ( Những người bạn của cố đô Huế) xuất bản năm 1918 thì đến triều Minh Mạng ,Tả Quân Lê Văn Duyệt bị Tân vương ghét bỏ vì ông ủng hộ Hoàng Tử Anh , cháu nội của dòng chính lên ngôi vua , phản đối sự kế vị vua Gia Long của Minh Mạng ( Hoàng tử Đảm).Tả quân còn công khai chỉ trích thái độ " bài Tây " -ngược với vua Gia Long - của vua Minh Mạng .Tuy nhiên do uy tín và vị trí của Lê Văn Duyện tại Nam Kỳ quá lớn nên sau khi ông mất ( 1832) ,hành động trả thù của vua Minh Mạng mới diển ra . Hàng loạt bà con thân thích ,tay chân của Lê Văn Duyệt đã bị bãi chức , tống ngục ,dẫn đến cuộc bạo loạn của Lê Văn Khôi ,con nuôi của Lê Văn Duyệt .Tuy nhiên chỉ trong một thời gian ngắn, cuộc bạo loạn của Lê Văn Khôi bị dập tắt .

    Từ mối ác cảm này , đồng thời để hạn chế sự lộng hành của các thái giám , ngày 17 tháng 3 năm 1836, vua Minh Mạng đã ban bố một tờ dụ khắc vào bia Văn Miếu ,trong đó có quy định rõ các thái giám tuyệt đối không được tham gia triều chính , không được xếp vào hàng quan lại. Thay vào đó , đội ngũ thái giám được chia thành 5 đẳng trật : Thủ đẳng , thứ đẳng,trung đẳng, á đẳng và hạ đẳng , mổi đẳng trật lại chia thành hai cấp với bổng lộc hàng tháng từ 24 quan tiền ,24 bát gạo đến 72 quan tiền và 48 bát gạo .Đến đời vua Thành Thái năm thứ hai
    (1890) chế độ lương trả bằng tiền và gạo bị xoá bỏ, thay bằng lương trả bằng tiền với 7 mức, từ 180 đồng đến 540 đồng /năm .

    Tuy bản thân không đạt được vinh dự như hàng quan tước,song các thái giám vẩn có thể đem lại cho cha mẹ, họ hàng của họ những quyền lợi nhất định . Những thái giám thuộc 3 đẳng trật cao nhất ( Quảng vụ,Điển sự,Kiểm sự và Phụng nghi ) có thể xin chức Nhiêu Phụ (cho cha) hoặc Miễn Nhiêu ( cho em, cháu) để họ được miển thuế cả đời . Dưới ba bậc này,các thái giám không được xin cho cha ,chỉ được xin cho em hoặc cháu .

    Có hai loại thái giám là: giám sinh và giám lặt . Giám lặt là những người bình thường , chấp nhận bị thiến để được vào cung sống bên cạnh hầu hạ các bà , đề phòng xảy ra ' sự cố " .Giám sinh là những người bẩm sinh ngay từ khi mới chào đời đã không có sinh thực khí dù của đàn ông hay của đàn bà .Luật triều Nguyễn năm Minh Mạng thứ 16 (1836) quy định khi có giám sinh chào đời , cha mẹ đứa trẻ phải báo ngay cho làng ,xã để lập danh sách báo lên cho Bộ Lễ nắm .Khi đứa trẻ lên 10, Bộ Lễ sẽ đưa nó vào cung ,dạy dổ đứa trẻ đầy đủ những lễ nghi phức tạp về kiến thức,cách xử sự trong hoàng cung để khi nó lớn lên thì tuyển vào đội quân thái giám . Làng nào dấu diếm " giám sinh " sẽ bị phạt nặng .

    Làng nào có giám sinh nghiễm nhiên sẽ được miễn thuế 3 năm, xem như có đại phúc .Vì thế những đứa trẻ giám sinh bị khiếm khuyết không những không bị coi thường mà còn được dân làng cung kính gọi là " ông Bộ " . Tài liệu của Công sứ A . Laborde ghi nhận,trong dân quê một số vùng,người ta vẩn thường bảo nhau bằng câu cửa miệng :"Ăn mà đẻ "ông Bộ " cho làng nhờ " (!) .

    Ước lượng ở giai đoạn đầu triều Nguyễn mỗi thời thường xuyên có khoảng 200 người . Cả giám sinh lẩn giám lặt . Đến thời vua Thành Thái (1879-1954) số lượng thái giám giảm hẳn, chỉ còn 15 người .Vua Duy Tân (1899-1945) chỉ duy nhất một lần " nạp thiếp " ( bà Hoàng Quý Phi Mai Thị Vàng ) cho nên các thái giám bị … thất nghiệp . Đến năm 1914,việc tuyển chọn thái giám thực sự chấm dứt , chỉ còn lại 9 vị được lưu lại trong cung để sống nốt những ngày cuối cùng của năm tháng tuổi già .

    Vua Khải Định (1885-1925) thể chất ốm yếu ,hầu như không muốn chuyện phòng the . Ông chỉ có duy nhất một người con là Hoàng tử Vĩnh Thuỵ , lên ngôi lấy niên hiệu là Bảo Đại .( Việc Hoàng tử Vĩnh Thuỵ có thực sự là con ruột cuả vua Khải Định hay không hiện vẩn là nghi vấn,tuy nhiên việc này không thuộc phạm vi bài viết này nên xin miễn bàn ,chú thích của AB ) . Vị hoàng đế cuối cùng này của triều Nguyễn nổi tiếng đào hoa . Nhưng năm 1934,dưới sự sắp xếp của Khâm sứ Trung Kỳ Charles -người đỡ đầu của Bảo Đại trong thời gian học tập ở Pháp – ông đã cưới cô Nguyễn Hữu Thị Lan , vốn là con gái một gia đình công giáo toàn tòng nên chuyện đa thê –trên hình thức- Bảo Đại đành chịu bị …cấm tiệt .Do đó dưới triều hai ông vua này,việc khôi phục lại đội ngũ thái giám đã trở nên không cần thiết ,cũng không còn ai bàn cãi tới . Vĩnh viễn , một lớp người từng tồn tại cả ngàn năm trong lịch sử phong kiến Việt Nam đã thật sự biến mất .


    5 vị thái giám đứng ngồi bên thềm Đại Nội


    PHẾ TÍCH VÀ HỒI ỨC

    Trải qua dâu bể , cửu đỉnh vẩn đứng sừng sững trong Thế Miếu . Rải rác trong các sân rồng xưa vẩn còn đôi chiếc vạc đồng nặng ngàn cân đứng uy nghi với thời gian . Những dấu chứng quyền lực của một vương triều vẩn còn đứng đó nhưng không ngăn được thiên tai , bom đạn…những tàn phá của thời gian và lịch sử , biến lăng tẩm đền đài xưa thành phế tích , không ngăn được hoa quê , cỏ dại từ những xóm nghèo của bách tính lê dân suồng sả mọc lên chiếm chổ những lầu rồng bệ ngọc của một vương triều . Tam cung , lục viện không còn , Cung Giám Viện , nơi ở của các thái giám xưa chỉ còn lại một nền gạch đổ nát . Cái còn lại chỉ là đôi chút hoài niệm ngậm ngùi về một lớp người mang thân phận của " những chiếc bóng ".
    Hình ảnh của các thái giám còn lưu lại đến tận ngày nay là một vài tấm ảnh trên những tấm bưu thiếp do Collection Dieulefils , Hà Nội ấn hành năm 1908 . Phía mặt sau của một tấm bưu thiếp có ảnh của 5 vị thái giám đứng ngồi bên thềm Đại Nội do nhà nghiên cứu Phan Thuận An sưu tầm được ,có bút tích của một du khách Pháp thời đó , mô tả các thái giám triều Nguyễn như sau : " Người ta gọi những thái giám là những người có danh vọng trong thành .Nói đúng hơn,họ là những người tai to mặt lớn .Đó là những người đặc biệt trong dân chúng An Nam .Cũng như các đồng hương của họ,những người thái giám đội khăn đóng chứ không che mặt như kiểu các tín đồ công giáo ở bên Pháp của ta.Ngược lại,họ để lộ mặt mũi,hình dung rất rõ ràng.-Huế 20/03/1908 ".
    Ngoài ra những người hoài cổ còn có thể tìm thêm được một di tích hiếm hoi khác về các thái giám . Đó là chùa Từ Hiếu ở núi Dương Xuân ,TP Huế ,cách Tử Cấm thành 5 km về phía tây nam . Năm 1843, Hoà Thượng Nhất Định đã lên đồi Dương Xuân dựng " Thảo Am an dưỡng " đễ tịnh tu và chăm sóc Mẹ già . Năm năm sau ,1848 , Thảo Am an dưỡng được mở rộng và xây dựng quy mô , nhờ vào sự ủng hộ lớn của một thái giám tên Châu Phước Năng. Với sự vận động của vị thái giám này, Dục Tông Anh Hoàng đế (Tự Đức ),Hoàng Thái hậu Từ Dũ và nhiều đại thần trong triều đã góp tiền của đễ xây dựng cơ ngơi và dự khánh thành chùa . Chính vua Tự Đức đã ban cho chùa tên hiêu Từ Hiếu với ý nghĩa Từ là đức lớn của Phật, Hiếu là hạnh đầu của Phật . Về sau,một số thái giám khác luờng trước được số phận cô đơn hiu hắt của họ lúc xế chiếu đã nhiều lần quyên tiền tu bổ , kiến thiết laị chùa đễ có chổ náu thân lúc tuổi già . Đến năm 1893 , đời vua Thành Thái thứ 5 , chùa Từ Hiếu được Hoà thượng Cương Kỷ trùng tu lớn , nhiều thái giám lại tiếp tục quyên tiền đóng góp và gởi gắm ý nguyện được chôn cất tại đây .Và họ đã được thoả nguyện . Sống hết mình thờ phượng đấng Quân vương , thác yên lặng nương mình bên cửa Phật , họ đã khiến người đời gọi chùa Từ Hiếu là chùa Thái Giám , nơi duy nhất và cuối cùng lưu giữ dấu tích còn lại của một lớp người .
    Ngày nay,bên phải chùa Từ Hiếu vẩn còn một khu nghĩa trang các thái giám . Sau 4 bức tường rêu phủ nằm lẩn khuất giữa rừng đầy cỏ hoang , hoa dại là 23 mộ phần của các thái giám , trong đó có mộ đã được bốc , vài ba mộ không để bia , số còn lại là những mộ phần được xây cất tử tế , bia mộ chỉ đơn giản ghi mỗi cái tên người đã khuất mà không ghi gì thêm , dù chỉ một dòng năm sinh, năm mất hay quê hương bản quán . Sống lặng lẽ , họ ra đi cũng lặng lẽ . Những tâm sự , buồn vui , phiền muộn của một kiếp người đều theo họ vùi sâu vào đáy mộ . Chỉ có tấm bia đá dựng trước cổng nghĩa trang phủ đầy rêu là vẩn còn đọc được giúp nhân gian biết được về họ chung trong một nỗi niềm . Bia đề :" Trong đời sống , chúng tôi tìm thấy ở đây sự yên bình . Khi ốm đau , chúng tôi lui về đây và sau khi chết , chúng tôi sẽ được chôn chung ở đây . Dù sống hay chết , chúng tôi vẩn tìm thấy được ở đây sự yên bình ".

    Nguyễn Hồng Lam
    Đã chỉnh sửa bởi Mít Đặc; 08-01-2010, 09:37 PM.
    Tôi khám phá ra bí mật của đại dương khi suy niệm về một giọt sương mai .
    Similar Threads
  • #2

    Hoạn quan Việt Nam

    Mặc dầu văn hóa Việt Nam và văn hoá Trung Hoa có rất nhiều tương đồng, tương cận nhưng tại Việt Nam hầu như ít có những thái giám khuynh loát triều chính như ở Trung Hoa, trái lại có khá nhiều danh thần xuất thân từ hàng yêm hoạn.


    Người hoạn quan thứ nhất nổi danh trong lịch sử Việt Nam là Lý Thường Kiệt đời nhà Lý với chiến công "phá Tống bình Chiêm".

    Người hoạn quan thứ hai cũng rất tiếng tăm là Việp Quận công Hoàng Ngũ Phúc làm quan dưới đời vua Lê Hiển Tông, đã cùng Phạm Đình Trọng dẹp yên hai cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Hữu Cầu và Nguyễn Danh Phương, khi về hưu được phong làm Quốc lão. Về sau ông đem đại quân đánh vào Phú Xuân, bắt được Trương Phúc Loan rồi trấn thủ Thuận Hóa, chấm dứt một giai đoạn phân tranh Nam – Bắc kéo dài hơn 200 năm.

    Người thứ ba là Tả quân Lê Văn Duyệt khai quốc công thần triều Nguyễn mà nay mộ của ông tại Bà Chiểu, Gia Định vẫn là một đền thờ được dân chúng chiêm bái gọi là Lăng Ông. Lê Văn Duyệt tuy cũng xuất thân hoạn quan nhưng ông bản chất là người ái nam ái nữ chứ không phải tự thiến để thành quan thị như Việt Quốc công Lý Thường Kiệt hay Việp Quận công Hoàng Ngũ Phúc.

    Ở Việt Nam, hoạn quan được ghi nhận là có từ thời nhà Lý, đến triều Nguyễn, hoạn quan được chia làm năm trật:
    Quản vụ Thái giám và Điển sự Thái giám.
    Kiểm sự Thái giám và Phụng nghi Thái giám.
    Thừa vụ và Điển nô Thái giám.
    Cung sự và Hộ nô Thái giám.
    Cung phụng và Thừa biện Thái giám.

    Việc kén chọn hoạn quan ưu tiên tuyển những trẻ em "ái nam ái nữ" do lệnh của triều đình. Người dân nào sinh con có khuyết tật đó được quan sở tại tới khám xét rồi làm sớ tâu lên. Cha mẹ đứa bé sẽ nuôi con đến lúc 13 tuổi, sau đó Bộ Lễ sẽ đưa vào cung tập sự hoạn quan. Làng nào có hoạn quan tiến cử được miễn binh lính, phu phen tạp dịch và cả sưu thuế. Nếu không có đủ số trẻ ái nam ái nữ, thanh niên nào tự nguyện thiến bộ phận sinh dục sẽ được tuyển chọn.

    Tuy nhiên, thái giám Việt Nam chỉ là một số nhỏ không được trọng vọng lại chỉ được làm những việc lặt vặt chưa thành hẳn một tầng lớp có ảnh hưởng như Trung Hoa. Theo chỉ dụ của vua Minh Mạng, thái giám không được dự vào phẩm hàm hay quan chức triều đình và chỉ được hầu hạ trong cung mà thôi, cũng có thể nhà vua không muốn xảy ra việc hoạn quan chuyên quyền như Trung Hoa hay vì đố kỵ với Tả quân Lê Văn Duyệt trong vụ nổi loạn thành Phiên An. Tấm bia khắc là toàn văn bản dụ này nay vẫn còn trong Văn Miếu, Huế. Thái giám cũng có riêng một nghĩa trang trong khuôn viên chùa Từ Hiếu, cách Huế khoảng 1 km theo hướng tây nam và vì thế chùa này còn được gọi là chùa Thái Giám.

    Trong một số thời kỳ, nước Việt phải đem cống sang Tàu một số người tài giỏi, sau đó bị trở thành hoạn quan. Theo Hoàng Minh thông ký, một hoạn quan người Việt là Nguyễn An đã vẽ kiểu tu tạo thành Bắc Kinh bao gồm 9 cửa, 2 cung, 3 điện, 5 phủ, công đường, nha môn 6 bộ và các trường xưởng nhà trạm. Ông làm quan trải năm đời vua triều Minh là: Thành Tổ, Nhân Tông, Tuyên Tông, Anh Tông, và Cảnh Tông, tính tình liêm khiết rất đáng kính trọng.




    ----------------------------

    Cái đẹp của sa mạc là một cái giếng nó ẩn dấu nơi đó.

    Comment

    • #3


      1764 - 1832
      Tả Quân Lê Văn Duyệt


      Tiểu Sử :

      Dưới thời Gia Long- Minh Mệnh, Gia Định là cả một vùng rộng lớn . Năm 1832 sau khi Tả Quân Lê Văn Duyệt(LVD) từ trần, chế độ Tổng Trấn Gia Định mới bị bãi bỏ. Minh Mạng chia trấn này thành sáu tỉnh. (tên gọi Nam kỳ lục tỉnh có từ lúc đó, xem chú thích )
      LVD sinh năm Giáp Thân (1764) tại Cù Lao Hổ, cạnh vàm Trà Lọt , nay thuộc làng Hòa Khánh, tỉnh Tiền Giang . Nội tổ là Lê Văn Hiếu từ Quảng Ngãi đi vào Nam sinh sống . Sau khi ông Hiếu qua đời , cha LVD là Lê Văn Toại và thân mẫu là Phúc Thị Hào…rời Trà Lọt đến ở tại vùng Rạch Gầm, thuộc làng Long Hưng tỉnh Tiền Giang ngày nay.
      Ông sinh ra đã mang tật kín bẫm sinh (ái nam ái nữ) . Thuở nhỏ ít chịu học hành mà chỉ thích bắt chim, đánh cá, nhất là việc nuôi gà , đá gà và tụ tập các trẻ trong làng, chia phe tập trận đánh giặc .( Sau này , ông còn là người rất sành thú xem hát bội và thường tự tay cầm chầu). Tương truyền ông khỏe mạnh, thông minh, giỏi võ thuật, tuy không học nhiều , nhưng biết nhiều tuồng tích Tàu .Vì thế , ông luôn ước ao trở thành hào kiệt như trong truyện xưa miêu tả ; mới 15 tuổi , LVD đã nói “sinh ở đời loạn, không dựng cờ đánh trống đại tướng, chép công danh vào sử sách không phải là trượng phu.”

      Năm LVD lên 17 tuổi , một cơ may đến với ông là , đêm hôm đó chúa Nguyễn bị quân nhà Tây Sơn đuổi gấp. Nhờ mưa to gió lớn thuyền của đối phương không đuổi kịp . Nhưng khi đến Vàm Trà Lọt thì thuyền chở chúa bị sóng lớn làm cho suýt chìm. LVD xuất hiện đúng lúc , cứu NPA thoát nạn. Biết là gặp dòng dõi chúa Nguyễn, cụ Lê Văn Toại hết sức cung kính, cho tất cả tạm trú ở đây, nhân đó ông được NPA tuyển dụng làm thái giám .
      Ít lâu sau LVD được phong làm Cai Cơ trông coi nội binh.Từ năm 1789 ông bắt đầu đứng vào hàng tướng lãnh của chúa Nguyễn. Năm 1793, LVD cùng với NPA đi đánh Qui Nhơn, lấy được phủ Diên Khánh và phủ Bình Khương. Tháng 1 năm 1801 ông cùng chúa và các tướng lãnh khác như Nguyễn Văn Trương, Tống PhướcLương, Võ Di Nguy đánh chiếm cửa biển Thị Nại (trận Thị Nại). Quân Tây Sơn thua to . Tháng 4 NPA đem thủy quân ra Đà Nẵng . Đến tháng 5 vào cửa Tư Dung, Lê Văn Duyệt phá được quân Tây Sơn, bắt được phò mã Nguyễn Văn Trị và đô đốc Phan Văn Sách rồi vào cửa Eo. Vua Cảnh Thịnh mang quân ra giữ cửa Eo nhưng thua phải chạy ra Bắc. Ngày 3 tháng 5, NPA đem binh vào thành Phú Xuân.
      Tháng 5 năm 1802 chúa Nguyễn lên ngôi , chọn đế hiệu : Gia Long .Vua phong ông là Khâm Sai Chưởng Tả Quân Dinh Bình Tây Tướng Quân, lệnh cùng với Lê Chất mang quân thâu phục Bắc Hà. Chỉ trong vòng một thời gian ngắn thì xong việc .
      Nhiều công lao lớn nên LVD được liệt vào hàng Đệ Nhất Khai Quốc Công Thần, với đặc ân được vào chầu vua không phải lạy( nhập triều bất bái ) và được đặc quyền chém trước tâu sau ( tiền trảm hậu tấu ) nơi biên thùy , nên sau này ông không chịu lạy vua Minh Mạng (MM) và đã giết Huỳnh Công Lý, cha một quí phi của vua này , vì tội tham nhũng.
      Và ,ông còn là người đã từng khuyên vua Gia Long chọn con của Đông Cung Cảnh để nối ngôi , thay vì hoàng tử Đảm (là vua MM sau này). Tuy vua không nghe nhưng ông vẫn phò tá vua MM cho đến hết cuộc đời , mặc dù lòng không kính phục ông vua này.Ngược lại , MM cũng không ưa gì ông nhưng vẫn phải dùng đến .Năm 1823 ông được MM ân thưởng ngọc đái với lời dụ: “Từ xưa hoàng tử, chư công chưa ai được ân tứ ngọc đái này , nay khanh đã nhiều công lao nên đặc biệt ân tứ vậy.”

      Tả Quân LVD làm Tổng Trấn thành Gia Định hai thời kỳ: từ 1813 đến 1816. Năm 1813 ông lãnh chức Tổng Trấn thành Gia Định, kiêm trông coi luôn cả Bình Thuận và Hà Tiên. Đến năm 1816 ông được chỉ triệu về kinh để bàn nghị về ngôi Thái Tử. Lần thứ nhì từ năm 1820 cho đến khi mất , LVD làm tổng trấn ở Gia Định thành . Tả quân lúc bấy giờ rất uy quyền, lòng người ai cũng kính phục, gọi ông là "ông Lớn Thượng". Đương thời các nước lân cận đều sợ oai phong của LVD , gọi ông là "Cọp Gấm Đồng Nai", một trong ngũ hổ tướng (bốn người còn lại là Nguyễn Văn Trương, Nguyễn Văn Nhơn, Nguyễn Huỳnh Đức và Trương Tấn Bửu).
      LVD đã thành lập hai cơ quan từ thiện là "Anh hài" để rèn luyện võ nghệ cho trẻ thích việc kiếm cung và "Giáo dưỡng" để cho những trẻ khác và quả phụ học văn chương , nghề nghiệp. Thành Phiên An (tức thành Gia Định) do ông cho xây đắp thêm, đến năm 1830 thì xong. Thành được xây bằng đá ong, thành cao , rộng nên khi Lê Văn Khôi, con nuôi của ông , khởi loạn chiếm thành, quân triều đình vây đánh 3 năm mới hạ được. Tả quân lâm trọng bệnh và mất ngày 30 tháng 7 năm Mậu Thìn (nhằm ngày 15 tháng 8 năm 1832) hưởng thọ 69 tuổi. Miếu mộ của ông được xây cất tại Bình Hòa Xã (Gia Định), nơi người dân Đồng Nai kính cẩn gọi là “Lăng Ông” hay đền thờ Đức Thượng Công, còn các tộc người Hoa tôn xưng đền là “Phò Mã Da Da Miếu.”

      Tài đức của Tả Quân Lê Văn Duyệt :

      LVD là một vị quan rất mực thanh liêm . Dù quyền hành lớn , ông không hề hiếp đáp kẻ dưới, hoặc tìm mọi cách để bỏ túi riêng . Nhiều lúc LVD còn bỏ tiền của mình để làm việc hữu ích chung. Quân lính của ông rất có kỷ luật, không hề phá phách, cướp bóc …Và khi được triều đình cử đi dẹp loạn ở nơi nào, LVD cho điều tra kỹ để biết rõ nguyên nhân tại sao dân nỗi loạn. Nếu biết chắc do đám quan lại sở tại tham nhũng, bức hiếp làm cho dân chúng quá khổ sở, thì ngài thẳng tay trừng trị bọn tham quan trước rồi mới kêu gọi những kẻ làm loạn trở về đầu thú . Nhờ chính sách sáng suốt , khoan dung đó nên LVD đã vỗ yên ở nhiều nơi nhanh chóng, mà không tốn kém nhiều tiền bạc và nhân mạng.
      Dẫn chứng như việc chiêu dụ Mọi Vách Đá vào những năm 1807 và 1808. Trong chiến dịch này ông đã cho xử trảm Chưởng Cơ Lê Quốc Huy, một tên đại tham nhũng. Năm 1819 Ngài được cử đi kinh lược hai trấn Thanh, Nghệ. Ở đây LVD cũng thẳng tay trừng trị nhiều quan lại tham ô .Đặc biệt là ông cho lập ra ba đội lính “Hồi Lương” (An Thuận, Thanh Thuận, và Bắc Thuận) gồm những thành phần nổi loạn chịu qui phục …
      Thêm nữa ,việc làm nổi tiếng nhất của ông là xử tử Huỳnh Công Lý(HCL), Phó Tổng Trấn Gia Định. HCL là cha của một bà thứ phi rất được vua Minh Mạng sủng ái. Ỷ thế cha vợ vua, viên quan lớn này vơ vét tài sản của dân chúng, hà hiếp kẻ yếu, hối lộ trắng trợn. Tiếng kêu ca thấu đến tai LVD , ông cho điều tra tận gốc ,có đủ bằng chứng ông dâng sớ lên triều đình hài rõ tội trạng của HCL. Ngại triều đình vị nể cha vợ của vua, không dám thẳng tay trừng trị . LVD dùng quyền “tiền trảm hậu tấu” được Gia Long ban cho để ra lệnh xử trảm HCL, trước khi có lệnh giải tội phạm về kinh cho vua xét xử !
      Ngoài đức thanh liêm , ông còn có cái dũng của bậc trượng phu , không e ngại hay sợ sệt khi thi hành công việc lợi dân lợi nước . Trường hợp vừa kể là một thí dụ .
      Thêm chuyện khác : vua MM , vì tư thù , vì sợ bị mất ngôi nên xử tội Tống Thị Quyên , vợ của Hoàng Tử Cảnh, một cách oan uổng . bấy giờ chỉ có một mình LVD dám dâng sớ xin tha tội cho người này( nhưng ông vẫn phải theo lệnh vua dìm nước cho chết người góa phụ này. Đây là một bi kịch chốn cung đình ,đã có bài viết riêng ).
      Và Hai lần nhà vua cử người vào Nam giữ chức vụ quan trọng đều bị ông từ chối . Vì LVD biết những người này chỉ là những kẻ tham lam , hại dân hại nước. Một trong những người đó là Bạch Xuân Nguyên mà sau này sẽ là đầu mối của cuộc nổi loạn do Lê Văn Khôi , con nuôi ông , chủ xướng. Nhà vua cũng thầm ghét vì Tả quân không cấm đạo quá gắt gao.LVD cho rằng việc cấm đạo, bắt bớ giết chốc các nhà truyền giáo và các giáo dân, bế môn tỏa cảng không cho người Tây phương vào giao dịch buôn bán, là một chính sách hết sức sai lầm.
      Vậy cho nên , Minh Mạng không ưa những thài độ ương ngạnh đó nhưng vì uy thế , tài đức của LVD lớn quá nên nhà vua chưa thể ra tay .
      Sau khi LVD mất, con nuôi ông là Lê Văn Khôi cùng thuộc hạ trung thành LVD , giết chết Tổng đốc Nguyễn văn Quế & Bố chánh Bạch Xuân Nguyên , rồi dấy binh chiếm thành Phiên An (Gia Định ), chống lại triều đình . Quân nhà Nguyễn rất vất vả suốt 2 năm (1883-1834) mới dẹp được .
      Minh Mạng vốn ghen ghét LVD từ trước nên nhân cơ hội này ra lệnh triều thần hài tội (7 tội đáng trảm , 2 tội đáng giảo …).Và nhà vua ra lệnh san bằng rồi còn cho xiềng xích phần mộ ,dựng lên đấy tấm bia ghi :”Quyền yêm Lê Văn Duyệt phục pháp xứ (đây là nơi tên yêm hoạn LVD chịu phép nước ). Mãi đến đời Tự Đức mới xét phục hồi danh dự cho ông .

      Công lao của Tả Quân đối với dân Đồng Nai - Cửu Long

      Công lao của LVD đối với người dân vùng Đồng Nai -Cửu Long thật vô cùng to tát. Đó là công khai hoang, lập ấp ; làm cho một vùng rừng rậm ,đầm lầy … trở nên trù phú với một nền an ninh vững chắc (bởi chiến lược bảo vệ và phòng thủ phía Nam và phía Tây rất hữu hiệu của ông ), làm cho dân Miền Nam ít nhiều cũng có được một xã hội khá yên ổn , ấm no … Phan Thanh Giản , cũng là một vị quan có tài đức thời bấy giờ , đã thốt lên lời khen ngợi :
      “Gia Định này thật có phúc mới gặp được một Tổng Trấn như đại quan. Tôi ở Kinh Thành, ở Bắc Thành vào Gia Định thấy như đi qua một nước khác. Ở dọc sông thì trên bến, dưới thuyền, ghe thuyền san sát, lúa gạo nghìn nghịt. Vải vóc, đồ thau, đồ đồng, đồ sứ, đồ gốm, thảo mộc quý, quế, trầm, hồi thật là không thiếu thứ gì. Trên đất liền, nhà cửa phố xá san sát, khang trang. Đường đi lại lát gạch, lát đá sạch sẽ mát mắt….Cảnh dân theo đạo Thiên Chúa trốn chui, trốn nhủi như ở ngoài Bắc Thành, Kinh Thành, ngoài Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, vào đây không thấy. Cha truyền giáo vẫn đi lại bình thường trên đường phố. Tôi thật mừng. Mình làm quan thấy dân vui là mình vui. Làm quan chỉ biết vui phần mình thật đáng trách.”
      Năm 1822 một phái đoàn Anh do ông Crawfurd dẫn đầu có đến yết kiến Ngài Tổng Trấn. Trong dịp này Crawfurd thú nhận:
      “Đây là lần đầu tiên tôi tới Saigun (Sài Gòn) và Pingeh (Bến Nghé). Và tôi bất ngờ thấy rằng nó không thua gì kinh đô nước Xiêm. Về nhiều mặt trông nó còn sầm uất hơn, không khí mát mẻ hơn, hàng hóa phong phú hơn, giá cả hợp lý hơn và an ninh ở đây rất tốt, hơn nhiều kinh thành mà chúng tôi đã đi qua. Tôi có cảm giác như đây là một vương quốc lý tưởng.”

      Sau đó ông còn ghi lại trong quyển nhật ký của ông về những sinh hoạt của thành phố Sài Gòn lúc đó và tiếng tăm của Ngài Tổng trấn như sau:

      “Thành phố Saigun không xa biển, có lẽ cách độ 50 dặm; thành phố Pingeh (Bến Nghé) gần đó cách thành phố Saigun độ 3 dặm. Dinh Tổng trấn khá đồ sộ và uy nghiêm. Các thành trì nằm ở bờ sông An Thông hà. Nơi đây buôn bán sầm uất. Dân xiêu tán tới đây được Tổng trấn cho nhập hộ tịch, qua một hai đời đã trở thành người Gia Định. Đông nhất nơi đây là dân Trung Hoa. Các dân tộc nơi đây được nhà nước bảo hộ và họ đều có nghĩa vụ như nhau. Tất cả đều được sống trong bầu không khí an lành. Trộm cướp không có. Người ăn mày rất hiếm. Tổng trấn rất nhân từ, tha cả bọn giặc, bọn phỉ, bọn trộm cướp ăn năn. Nhưng ông lại rất tàn bạo với bọn cố tình không chịu quy phục triều đình. Chưa ở đâu kỷ cương phép nước được tôn trọng như ở đây. Một vị quan nhỏ ra đường ghẹo gái cũng bị cách chức lưu đày. Một đứa con vô lễ chửi mẹ Tổng Trấn biết được cũng bị phạt rất nặng. "

      Ở đây chúng tôi mua được rất nhiều lúa gạo, ngà voi, sừng tê giác, các hàng tơ lụa, đũi thật đẹp. Từ các nơi, dân đi thuyền theo các kênh rạch lên bán cho chúng tôi. Nhìn dân chúng hân hoan vui vẻ, chúng tôi biết dân no đủ. Nhiều người rất kính trọng vị Tổng Trấn của họ.
      Con người này ít học. Nhưng lạ lùng thay là có được cái nhìn cởi mở hơn nhiều những đại thần và cả nhà vua học rộng, làu kinh sử của Khổng giáo. Ngài sống thanh liêm, muốn mở mang đất Gia Định này trù phú hơn mọi quốc gia khác ở trong vùng biển Đông.” …


      Trích “Nhật Ký Hành Trình” của John White ,London 1824, tr.236 , nói về lần hội kiến với LVD như sau :Tổng đốc Sài gòn nghe lời người ta nói là một hoạn quan.Trông hình dáng của ông đã chứng minh khá rõ tiếng đồn này . Ông ấy khoảng 50 tuổi , có cái nhìn thông minh . Ông có vẻ hoạt động mạnh về thể chất & tinh thần . Gương mặt tròn , nhẳn , không râu . Riêng giọng nói rất chát tai , giống tiếng đàn bà .Còn y phục của ông ta giản dị giống như y phục của người nghèo …

      Tạm kết bài :

      I./ LVD là một người có số phận khá kỳ lạ .Bản thân vốn là một cậu bé ít học , ham chơi , lêu lổng ; nhờ cơ may, nhờ thời thế mà thi thố bản lĩnh . Là một người bị hoạn bẩm sinh , nhưng không vì thế mà mặc cảm , ông chỉ biết cống hiến hết tài năng , hết sức mình nên nhanh chóng trở thành đại tướng , mang ấn công hầu , làm “vương” một cõi , vua quan đều phải nể trọng …Cả khi ông mất rồi , mộ bị san phẳng , bị xiềng xích …Ấy vậy mà , người ta vẫn lén lút thờ cúng & hình ảnh ông luôn là vị thần hoàng hiển linh trong lòng dân tộc Việt lẫn Hoa .Chắc có nhiều lý do , nhưng theo tôi , ai biết lo cho dân có được cuộc sống yên ổn , có được cơ hội để làm ra manh áo ,chén cơm…thì cũng đủ để trở thành Thần !
      II/ Nếu như triều đình Nhà Nguyễn có cái nhìn cởi mở , chính sách cai trị khôn khéo trong cũng như ngoài … như ông ; thì có thể Việt Nam đã sớm trở thành một nước tiến bộ , giàu mạnh từ đầu thế kỷ thứ XX rồi .Ngẫm lại , LVD thật vô cùng xứng đáng làm tấm gương để mọi người soi rồi biết nói ít , làm nhiều ; không vì lợi ích riêng mà quên dân , quên nước …
      Bùi Thụy Đào Nguyên , biên soạn
      Chú thích:

      Theo Ðại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán triều Nguyễn, vào năm Mậu Dần (1698) chúa Nguyễn Phúc Chu cho lập phủ Gia Định, thời kỳ 1790-1802 còn là kinh Gia Định. Năm Nhâm Tuất (1802) vua Gia Long đổi thành trấn Gia Định; đến năm Mậu Thìn (1808) đổi ra thành Gia Định gồm năm trấn là Phiên An, Biên Hòa, Định Tường, Vĩnh Thanh, Hà Tiên.Năm 1832 vua Minh Mạng đổi tên là thành Phiên An, năm trấn chia thành sáu tỉnh Phiên An, Biên Hòa Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên. Năm 1835, tỉnh Phiên An đổi tên là tỉnh Gia Định.



      Bùi Thụy Đào Nguyên
      Tôi khám phá ra bí mật của đại dương khi suy niệm về một giọt sương mai.

      Comment

      Working...
      X
      Scroll To Top Scroll To Center Scroll To Bottom