• Nếu đây là lần đầu tiên bạn ghé thăm Trang nhà Chút lưu lại, xin bạn vui lòng hãy xem mục Những câu hỏi thường gặp - FAQ để tự tìm hiểu thêm. Nếu bạn muốn tham gia gởi bài viết cho Trang nhà, xin vui lòng Ghi danh làm Thành viên (miễn phí). Trong trường hợp nếu bạn đã là Thành viên và quên mật khẩu, hãy nhấn vào phía trên lấy mật khẩu để thiết lập lại. Để bắt đầu xem, chọn diễn đàn mà bạn muốn ghé thăm ở bên dưới.

Thông báo Quan trọng

Collapse
No announcement yet.

Xóm Bình Hòa

Collapse
X
 
  • Filter
  • Time
  • Show
Clear All
new posts

  • Xóm Bình Hòa




    Khi gia đình Mai dọn về Ngã Tư Bình Hòa thì nhỏ vừa
    lên tám. Anh Tú hai mươi và chị Thơ mười tám, đang
    mang bầu thằng Phương. Trước đó hai năm, chỉ có một
    mình ba lên Sài Gòn ở tạm nhà chú Sáu Tuấn bên Thị
    Nghè. Ba giữ chân kế toán trưởng cho một viện bào
    chế thuốc tây vào hạng lớn nhứt Sài Gòn thuở đó.
    Ông chủ người Pháp quanh năm ở tuốt bên Kinh đô ánh
    sáng. Năm thì mười hoạ mới giá lâm một lần để
    xem nhân viên mần ăn ra răng? Mọi việc đều giao cho
    một quản lý người Việt. Tuy vậy cái màn "vắng chủ
    nhà gà mọc đuôi tôm" cũng có lúc xảy ra. Trong đám
    phụ tá của ba có chú Thạnh, nhỏ hơn ba 5, 6 tuổi nhưng
    số nhi đồng lại đông gấp đôi, nên nhà chú thường
    xuyên thiếu trước hụt sau. Có lần thiếm vô nhà
    thương mổ ruột dư, túng quá chú đành vô bureau của
    ba, gãi đầu gãi tai một hồi mới ấp úng:

    - Anh Thăng, vợ em nằm nhà thương Grall... (thở dài!),
    em cũng biết là làm phiền anh lắm, nhưng mà... (chắc
    lưỡi...), em hết biết tính sao?

    Ba Mai không nói không rằng, rút đại một cái hoá đơn
    của một nhà thuốc nào đó còn thiếu tiền, đưa cho
    chú Thạnh:

    - Nè, đi đòi đi. Rồi sau ráng trả lại cho đàng hoàng
    nghe không.

    Chú Thạnh hởn hở cầm cái hóa đơn cứu mạng, miệng
    cám ơn rối rít. Ba thích giúp đỡ mọi người nên
    được các đồng nghiệp yêu mến. Thỉnh thoảng mấy
    chú kéo đến nhà Mai nhậu nhẹt, cả anh chàng dược sĩ
    trẻ người Pháp từ Paris qua.

    Sau này, thấy mỗi lần má dẫn Mai lên Sài Gòn thăm ba
    vất vả quá, vì phải đi tàu từ Cao Lãnh qua Sa Ðéc.
    Không muốn phiền người quen nên má và Mai phải ngủ
    qua đêm trên mui tàu, sáng hôm sau mới lấy xe đò lên
    Sài Gòn. Nội qua cái bắc Mỹ Thuận cũng mất mấy tiếng
    đồng hồ. Thành thử quãng đường chỉ dài độ 140
    cây số mà phải đi cả ngày mới tới. Má còn cụ bị
    lủ khủ nào gạo, khô, gà vịt, trái cây... Lần nào cũng
    bị lơ xe cằn nhằn. Ðó là chưa kể dưới quê tình
    hình rất lộn xộn. Lính Quốc gia. Lính Hòa Hão. Việt
    Minh. Người dân ở giữa giống như trái độn. Ðó là
    chưa kể nạn cướp tới thăm. Lúc đó má và chị Thơ
    chở một ghe xoài qua bán bên tỉnh Bến Tre, nên Mai phải
    qua ở với ông bà nội.

    Ðêm đó nhằm rằm nên trăng sáng vằng vặc. Mai ngủ
    chung với bà nội ở gian giữa. Chị Yến con cô Hai ngủ
    trên bộ ván gõ cạnh cửa sổ ngó ra vườn. Không hiểu
    cao hứng gì mà đêm đó chị gác một chưn lên thành
    cửa sổ. Nửa đêm giựt mình thức dậy vì có cảm
    giác hai cánh cửa sổ nhúc nhích. Chị ngồi bật dậy
    ngó qua khe cửa thấy một người mặc đồ đen, vai đeo
    súng đang lấy sức kéo mạnh cho cánh cửa bật ra. Chị
    la lên:

    - Cướp! Cướp! Cậu bảy ơi, ăn cướp!

    Cả nhà tỉnh ngủ tức khắc. Bà nội kéo Mai chun xuống
    gầm giường, con nhỏ run như cầy sấy. Bà mò xuống
    bếp lấy cái mâm thau (hay nồi đồng gì đó Mai cũng
    quên mất), chun trở vô gầm giường, tay vừa gõ xèng
    xèng, miệng niệm Phật lia lịa (ông nội có chỗ bí
    mật để ngủ mỗi đêm nên không khi nào lên tiếng).
    Nghe tiếng báo động của bà nội, cả xóm kẻ gõ nồi,
    người gõ mâm, người khác lại gõ mõ - chị Yến gan
    lì hết sức, vừa chạy vòng vòng vừa ngó qua khe cửa
    (trong nhà tối, bên ngòai trăng sáng như ban ngày), mỗi
    lần thấy bóng một tên cướp (có khoảng 3 tên, đi
    xung quanh nhà, gặp cửa nào cũng giựt thử, nhưng cửa
    nhà ông nội rất chắc chắn) chị lại thét lên (chắc
    để cướp tinh thần địch):

    - Nó nè cậu bảy ơi. Chĩa đâu đưa đây con đâm nó (!??)

    Chú Bảy cũng phụ họa:

    - Ðâu đâu. Ðể đó cho tao!

    Lính ở đồn Mỹ An bên kia sông, xéo xéo nhà ông nội
    nghe tiếng xèng xèng, cóc cóc bên Tân An liền bắn qua
    mấy phát súng thị uy. Bọn cướp thấy không xong bèn rút
    lui có trật tự... Mờ sáng hôm sau, vị hôn phu của chị
    Yến (ở tuốt bên xã Mỹ Ngãi, cách Tân An một cánh
    đồng rộng khoảng 2 cây số rưỡi. Ðứng ở lộ mới
    bên này nhìn xuyên qua cánh đồng thấy thấp thoáng vài
    mái nhà sau hàng cây bần, cây gáo) lật đật qua vần
    an người yêu. Chị cười lỏn lẻn hỏi sao biết, thì anh
    Dương cũng rất thiệt thà thổ lộ rằng, tối hôm qua,
    lẫn trong tiếng xèng xèng, cóc cóc, anh còn nghe tiếng
    cướp cướp được phát ra từ cái giọng Soprano "vượt
    bức tường âm thanh" của chị, bay qua tuốt bên nhà của
    anh. Vì vậy anh thấp thỏm đợi hừng sáng là qua "thăm
    dân cho biết sự tình." Thấy chị bình an vô sự anh rất
    mừng(Mai không biết khi khám phá ra cô vợ tương lai có
    cái giọng "cao hơn người" này - chị Yến vốn cao chưa
    tới thước rưỡi - anh Dương có lo sợ cho hai cái màng
    nhĩ của anh không nữa?!). Cứ vài tháng cướp lại đến
    hỏi thăm sức khỏe một lần. Tuy không tổn thất vật
    chất, nhưng tinh thần lại thiệt hại trầm trọng. Ba thấy
    vậy kêu cả nhà lên ở luôn trên Sài Gòn.

    Ba má mua lại một căn nhà mái tôn, vách bổ kho nho nhỏ
    trên đường Lê Quang Ðịnh (sau này buôn bán khá, ba má
    mới nới rộng thêm ra). Nhà cách ngã tư độ trăm thước
    đi về hướng chợ Cây Quéo. Cũng nhờ bác Ba Ðại của
    Mai an cư lạc nghiệp tại xóm này hơn 20 năm rồi. Bác có
    8 người con - 5 trai, 3 gái. Lớn nhứt là anh Hai Jean. Nhưng
    bị mọi người "nhất trí" kêu là Răng (gia đình Bác dân
    Pháp nên mang tên tây ráo trọi). Lúc ông Diệm lên chấp
    chánh bắt phải đổi lại quốc tịch Việt. Không hiểu do
    óc khôi hài cao độ hay vì lý do nào khác, anh lấy tên
    là Nguyễn Văn Vàng. Từ đó tên anh trở thành Hai Răng
    Vàng, tuy cả hai hàm, kiếm bảy ngày cũng không ra 1 cái
    răng vàng nào hết. Anh giống bác Ba trai, đẹp như tài
    tử Mỹ, cái miệng lại trơn như thoa mỡ. Mỗi lần anh
    ghé thăm là cả nhà cười nghiêng cười ngửa. Ông bà
    gìa vợ quý anh như vàng. Hai ông bà trước sau chỉ có
    hai cô con gái rượu. Chị Tâm và chị Nguyệt. Anh lấy cô
    em là chị Nguyệt. Tin tưởng tuyệt đối nơi chàng rể
    quý, nên năm ba bữa bà má vợ lại nhờ:

    - Răng à, chở dùm chị hai mày vô chợ Lớn khui hụi cho
    má. Bữa nay má ể mình đi hổng được!

    - Răng à, chở chị hai con vô nhà bà Tôn đòi tiền dùm
    má. Trời Phật ngó xuống mà coi. Thiếu có năm ngàn mà
    đi mòn đường cũng hổng chịu trả. Ứ hự!!

    Cho tới một hôm chị Tâm khăn gói ra đi không một lời
    từ biệt cha mẹ già. Tra khảo riết, cuối cùng anh Răng
    cũng phải thú thiệt là đem chị Tâm dấu một chỗ chờ
    ngày đập bầu. (Vì ngoài những chuyện bà má vợ nhờ
    làm, anh còn thày lay làm luôn những chuyện bả không hề
    nhờ mới là khổ!!). Bà già lăn ra sàn gạch khóc lóc
    thảm thiết, nhưng cuối cùng cũng đành chấp nhận
    thương đau!! Từ đó hai chị em không thèm nhìn mặt
    nhau nữa, nhưng cái mục sản xuất nhi đồng thì không bà
    nào chịu thua bà nào. Cứ chị Tâm một đứa thì chị
    Nguyệt một đứa (thiệt là công bằng hết chỗ nói!).
    Nhà bác ba Ðại ở ngay mặt đường cái. Kế đó là quán
    cà phê, hủ tíu của vợ chồng chú ba Lâm. Hai ông bà
    không con, nuôi một con chó vàng khôn hết sức. Không
    hiểu sao một bữa cao hứng, cẩu ta chạy băng qua đường
    (chắc thấy một bóng hồng nào đó đang nhởn nhơ bên kia
    chăng? Vì chỉ có tình yêu mới khiến cho muôn loài đâm
    ra mù quáng! ) bị xe xích lô máy cán chết tươi. Thiếm
    ba khóc quá chừng vì thương chú cẩu này như con... Nhà
    Mai kế bên nhưng thụt sâu vô trong. Khoảng sân trước
    tiếp giáp với quán cà phê. Mỗi buổi sáng, Mai chỉ cầm
    cái ly bước vô sau bếp chú ba Lâm là có cà phê sữa
    nóng hổi đem về cho ba ăn sáng trước khi đi làm. Gần
    đường, sát vách quán má chất đống củi khô bán cùng
    xóm, vì thời đó nhà nào cũng còn chụm củi hoặc than.
    Mỗi tối, cơm nước xong, cả nhà quây quần ở chiếc
    bàn tròn trước sân. Nói chuyện tầm phào hoặc nghe
    ké mấy tuồng hát bội từ cái ra dô bên quán cà phê.
    Vì vậy ngay từ nhỏ, Mai đã thuộc lòng chuyện Bà Chung
    Vô Diệm với lão vua dê xồm Tề Tuyên Vương. Mỗi lần
    nghe cái giọng khẩn cầu thảm thiết của lão khi giặc
    tràn tới biên cương:

    - Hậu ơi Hậu. Hậu ráng cứu trẫm chuyến này. Trẫm
    thề sẽ...v.v. và v.v. để rồi sau đó, khi bà dẹp
    xong giặc trở về, lão ta lại nghe lời mấy con Thứ
    phi xí xọn dèm xiểm, kiếm mọi cách tống bà vô lãnh
    cung là Mai lại tức cành hông.

    Có lần hỏi má:

    - Má à, sao bà Chung Vô Diệm giỏi võ như vậy, mà lúc
    bị đày vô lãnh cung, bả hổng chém cho ông vua một nhát
    để ổng chết phứt cho rồi?

    Chị Thơ háy một cái lạnh lùng luôn:

    - Vậy cũng nói! giết "thằng chả" chết rồi là hết
    chuyện, lấy đâu cho mày nghe mỗi tối?

    Má cũng nói:

    - Ối, chuyện người ta đặt ra mà, hơi đâu thắc mắc!

    Vậy chớ Mai cũng cứ ấm ức! Cái bà Chung Vô Diệm
    ngoài chiến trường thì oai phong lẫm liệt, trước mặt
    lão vua già lại ỉu xìu như cái bánh tráng ướt! Lão chỉ
    cần "thở" ra vài lời đường mật là bà ta lại hồ
    hỡi xông pha điều binh khiển tướng. Có lần vác cái
    bầu gần ngày sanh ra trận,, bị vây khổn, bèn đẻ rớt
    luôn một hoàng tử giữa trận tiền. Trong khi đó lão vua
    già phây phây ở nhà ôm ấp mấy con Thứ Phi cà chớn!
    Bà Chung Vô Diệm hiền chớ Mai là chém ráo trọi. Từ lão
    dâm tặc cho tối mấy con vợ bé cà chua (ủa, hổng ngờ
    sao hồi đó miệng còn hôi sữa mà Mai đã "bà chằng"
    dữ vậy há? Chớ sau này lớn lên Mai hiền khô hà. Có
    bị ông xã ăn hiếp cũng chỉ dám áp dụng đòn "chiến
    tranh lạnh" (như Nga với Mỹ hồi nẩm), hoặc "bất hợp
    tác chặt chẽ" với phe địch mà thôi. Ðâu bao giờ dám
    dùng "ton" La hoặc "ton" Ré để cãi tay đôi?) Vậy mới
    biết thân phận đàn bà bao giờ cũng bị thiệt thòi!!

    Sát vách nhà Mai là nhà cô Bảy Huệ. Lúc gia đình Mai tới
    thì bên nhà cô có bà mẹ độ 60 tuổi, tóc hoa râm, rất
    đẹp lão. Cô bảy độ chừng 25, 26 tuổi và thằng Bảo là
    con người anh ruột của cô. Nghe bác Ba gái nói ông này
    theo lính Bình Xuyên đóng bên kia cầu chữ Y. Nó bằng
    tuổi Mai mà sáng nào cũng ngồi trước hàng ba khóc nhèo
    nhẹo cho tới khi bà Hai Cần (bà nội nó) xì tiền ra cu
    cậu mới chịu nín. Ba cấm không cho Mai chơi với nó. Ông
    nói ba nó là giặc Bình Xuyên. Mai thấy thiệt là vô lý.
    Ba nó theo Bình Xuyên có phải tại nó xúi đâu mà bắt
    lỗi nó? Vì vậy sau giờ học, Mai hay lén qua sân nhà cô
    Bảy Huệ để chơi nhảy lò cò với thằng Bảo (trường
    Mai ở gần nhà trong khi ba đi làm tuốt ngoài đường
    Catinat), nhưng phải canh chừng, hễ thấy bóng chiếc Alcion
    trờ tới trước cửa nhà nhỏ Kim Chi (cách nhà Mai 2 căn)
    là phải lẹ lẹ nhảy phóc qua cái lan can mà về tức thì,
    nếu bị bắt tại trận tối đó sẽ bị phạt quỳ...

    Thật ra cho tới bây giờ, nghĩ lại tình cảnh cô Bảy Huệ
    lúc bấy giờ, Mai không biết nên thương hay nên trách?
    Cô Bảy người tầm thước, nước da bánh mật, miệng
    hơi móm duyên, cười khoe hai hàm răng nhỏ rức. Không
    phải sắc nước hương trời, nhưng là một nhan sắc
    hiền diệu, ưa nhìn. Cô nói năng lại rất nhỏ nhẹ,
    chừng mực. Sáng nào Mai cũng thấy cô mặc bộ đồ nữ
    quân nhân, đúng giờ một chiếc xe nhà binh tới ngừng
    trước ngõ, rước cô đi làm, chiều cũng chiếc xe nhà
    binh đó đưa về. Ngoài giờ làm việc Mai chưa thấy cô
    đi chơi với bạn trai bao giờ, tuy rằng thời đó, ở
    tuổi cô, có thể nói là hơi... quá lứa! Mai không biết
    lương hướng của cô ra sao, chỉ biết ngoài bà Hai Cần
    (mắc bịnh ghiền đánh tứ sắc) cô phải cưu mang thêm
    thằng Bảo, vì má nó mất sớm, ba nó đi lính Bình Xuyên
    nên giao đứt luôn cho má con cô nuôịThấy nó côi cút,
    nên đôi khi bà Hai cưng chiều quá đáng. (Sau khi quân
    chính phủ dẹp tan đám Bình Xuyên, ba thằng Bảo bị bắt
    ở tù). Vì vậy ngoài má con cô Bảy Huệ và thằng Bảo,
    nhà không bao giờ có bóng đàn ông... Vậy mà một bữa
    đi học về, mới tới đầu ngõ Mai thấy một người
    đàn ông trọng tuổi từ trong nhà cô Bảy đi ra. Dáng
    người hơi thấp, mập mạp, trắng trẻo, tóc hoa râm.
    Nhìn ông, người ta đoán ngay được là dân có tiền.
    Tò mò Mai đứng lại nhìn. Ra tới cổng, ông ta còn dòm
    bên trái, bên phải như kiếm ai rồi mới đeo cập kiến
    đen, bước hối hả ra đường, đi về hướng ngã Tư
    Bình Hòa. Mai vô nhà gặp chị Thơ đang nấu cơm chiều,
    nhỏ kể luôn:

    - Em mới thấy có một "ông già" từ nhà cô Bảy Huệ
    đi ra.

    Chị Thơ thì thầm (vì bếp nhà Mai sát vách nhà cô Bảy):

    - Ổng là "mèo" của cô Bảy đó.

    Mai nhảy dựng như bị phỏng lửa:

    - Cái gì? Mèo của cô Bảy?

    Chị Thơ cú lên đầu Mai một cái đau điếng:

    - Nhỏ họng chút coi. Mày la om sòm bên kia "họ" nghe được
    làm sao?

    Mai vừa vò đầu vừa nhăn nhó:

    - Chị có lộn hông đó. Rủi ổng là "mèo" của bà Hai...

    Chị Thơ xì một cái:

    - Mày biết gì mà nói. Hôm kia bà Hai qua đây "tâm sự,"
    khóc lóc một trận quá trời với má đây nè. Bả nói
    tại nghèo, lại cần tiền lo cho ba thằng Bảo ra khỏi tù,
    nên có người bà con làm mai cho cô Bảy làm bé ông này,
    cổ đành ưng thuận. Ổng có vợ mà gần 20 năm nay bả
    cứ trơ trơ, chẳng chịu chửa đẻ cho ổng đứa con nào
    hết trơn. Mà ổng thì giàu quá trời. Chủ một hãng
    taxi, tới mấy chục chìếc cho mướn lận đó. Ổng ham
    con lắm nên chịu bảo bọc hết gia đình cô Bảy. Hổm nay
    tao thấy ổng vô đây mấy lần rồi đó. Nghe đâu ổng
    gần năm mươi tuổi, nhưng nhờ giàu có tẩm bổ nhiều
    thành thử còn "chiến" lắm. Ủa mà mày hổng để ý lúc
    này cô Bảy đâu còn đi làm nữa.

    Ờ há, cả tháng nay Mai không thấy chiếc xe nhà binh mỗi
    sáng ngừng rước cô Bảy như thường lệ. Nhưng ai đâu
    để ý "chiện" người lớn? Bữa nay chị Thơ nhắc Mai
    mới nhớ ra. Rồi sau những lần gặp gỡ lén lút tại
    nhà cô Bảy (thường ông ta đến và đi đều trong giờ
    làm việc, chắc để bà vợ khỏi nghi, đậu xe xa xa rồi
    mới tà tà đi bộ đến cái "tổ oan ương." Mỗi lần
    người khách quý này tới là bà Hai Cần phải kiếm cớ,
    khi thì xách giỏ đi tuốt xuống chợ Bà Chiểu, lúc lại
    dọt qua nhà Mai ngồi tán dóc với má ít lâu cho "đôi
    trẻ" mần việc - Rất nghiêm chỉnh, vì đối với ổng,
    thì giờ thật sự là tiền bạc!) - kết quả thấy rõ
    là cô Bảy Huệ mang bầu. Ông Kiện (sau này Mai mới biết
    ổng tên Kiện) mừng hết lớn. Có lẽ vì vậy mà đâm
    ra bất cẩn. Một ngày đẹp trời đi học về, Mai thấy
    một bà đứng tuổi - cỡ má - phốp pháp, mặt mày đầy
    son phấn đứng trước cổng nhà cô Bảy (đương nhiên là
    được cài móc phía trong rất kỹ để phòng hờ...). Bàn
    tay có những móng sơn đỏ chót, đang xỉa xói vô nhà,
    miệng chửi dòn tan. Lối xóm bu lại coi đông nghẹt. Bả
    phân bua:

    - Từ mấy tháng nay tui biết là thằng chả có mèo. Theo
    dõi riết bây giờ mới bắt được tại trận. Tui biết
    chắc là tụi nó đương hú hí với nhau ở trỏng.

    Rồi bả nghiến răng trèo trẹo rít lên:

    - Trời ơi thằng gìa dịch. Ðầu hai thứ tóc rồi mà còn
    ngu (?) đem tiền cho "con ngựa" đáng tuổi con nó ăn. Trời
    ơi là trời! Tui có lầm lỗi gì đâu mà bị đối xử
    tàn nhẫn như vầy? Ðồ ác nhơn thất đức!!(Tội
    nghiệp, bả quên là trong xã hội Việt Nam, vợ chồng
    lấy nhau không con cũng là một vấn đề trọng đại. Có
    được bao nhiêu người đàn ông rộng lượng? Hay chụp
    ngay cái cớ đó để lập phòng nhì, phòng ba?!).

    Réo đôi gian phu dâm phụ ra chửi tơi bời hoa lá mà thấy
    trong nhà vẫn áng binh bất động, bả đâm mất hứng
    đành lui binh, sau khi ném lại một câu đe dọa xanh dờn:

    - Rồi tụi bây sẽ biết tay tao!

    Nghe nói chiếc Peugeot 203 của ổng đậu tuốt ngoài ngã
    tư, gần rạp Cao Ðồng Hưng bị bà Hoạn Thư đập tan tành
    hết mấy cái kiếng (không bị đốt như chồng cô Hườn
    là may rồi, nhằm nhò gì ba cái kiếng xe!).

    Sau đó, không biết ổng về điều đình với bà vợ ra
    sao mà không thấy bả trở lại đánh ghen cô Bảy Huệ nữa.
    Thằng Toàn ra đời trong sự vui mừng tột cùng của ông
    Kiện. Ðầy tháng của nó, cô Bảy cúng nguyên một con heo
    quay to tướng. Bà Hai đem biếu hàng xóm mỗi nhà một
    phần ăn lấy thảo. Mai còn nhớ lúc nó được đâu năm,
    sáu tháng gì đó, ông Kiện bị tai nạn gẫy một chưn
    phải nằm nhà thương. Vậy mà ngày nào ổng cũng bắt taxi
    chở tới đậu trước cổng nhà, cô Bảy Huệ ẵm thằng
    Tòan ra cho ổng nựng nịu, hun hít một hồi rồi mới
    chịu quay trở vô nhà thương. Thấy đống đồ chơi của
    nó mà bắt thèm. Chị Thơ sanh thằng Phương trước nó 5
    tháng, mà tội nghiệp quanh đi quẩn lại chỉ có 2, 3 món
    đồ chơi quèn. Bù lại nó là đứa cháu đầu nên được
    cả nhà cưng như cưng trứng. Nó lại đẹp quá thể nên ba
    lúc nào cũng trong tư thế sẵn sàng móc... hình thằng
    cháu ngoại ra khoe!

    Ngay phía sau hè nhà cô Bảy là gia đình bác Hân, người
    Bắc, mới di cư vào Nam được gần năm nay. Bác trai độ
    40 nhưng gầy còm, mặt mũi nhăn nheo như trái táo khô,
    nên thấy như ngoài ngoài 50. (Con trai lớn nhứt mới 16
    và đứa út mới 7 tuổi). Cả nhà từ lớn tới nhỏ (thêm
    hai người thợ) suốt ngày đánh vẹc ni đờn. Ðủ thứ:
    guitare, mandoline, violon. Chỉ đánh vẹc ni thôi, xong rồi
    đem giao chỗ khác. Vì vậy hễ mở cửa sau là nghe "nồng
    nàn" mùi vẹc ni, bắt nhức cái đầu! Mai không hiểu sao
    cả nhà bác Hân có thể hít thở cái mùi khó ngửi này
    quanh năm ngày tháng? Chị Thơ nói thì quen lỗ mũi chớ
    sao. Giống như bác ba gái nhà mình ghiền dầu cù là, lúc
    nào cũng thủ một chai trong túi áo. Bác Hân trai mắc bịnh
    suyển. Ðôi khi đang làm, bác ngưng tay, vói lấy cái điếu
    cầy rít thuốc lào ròng rọc, sau đó lại nổi cơn ho sù
    sụ, cái lưng cong như con tôm! Bác Hân gái hiền, cũng ốm
    o, hàm răng trên hô, chìa ra khỏi cặp môi dày lúc nào cũng
    sẵn sàng toét ra cười. Tội nghiệp bác, tối ngày chúi
    đầu trong bếp nấu ăn cho chồng con và đám thợ.

    Cạnh bác Hân (tức ngay sau hè nhà Mai, chỉ cách cái sân
    rộng độ 3 thước) là nhà bà cụ Hiền. Cụ cũng khoảng
    sáu mươi (bây giờ gọi những người sáu mươi bằng cụ
    dám bị vác chiếu ra tòa vì tội... phỉ báng lắm à!),
    người nhỏ bé. Tóc còn đen mượt, được vấn trong chiếc
    khăn nhung đen. Lần đầu, Mai giựt mình khi thấy cụ cười
    khoe hai hàm răng đen thủi đen thui. Mai tưởng cụ bị hư răng,
    nhưng sau má nói tại cụ nhuộm. Theo phong tục ngoài Bắc,
    đàn bà phải răng đen mới đẹp. Hổng giống "người Việt"
    mình, răng trắng chừng nào đẹp chừng nấy, má nói. Cụ
    có một người con duy nhứt là cô Lành, trắng trẻo, mảnh
    khảnh, trái với ông chồng tên Thịnh, mang lon trung sĩ, nghe
    đâu lớn hơn cô cả một con giáp. Chú Thịnh to lớn, mặc
    đồ nhà binh đầy vẻ oai vệ. Có lần cụ than với má:

    - Khổ lắm bà ơi. Thân tôi góa bụa, lại chỉ có một mụn
    con gái, không ở với nó thì ở với ai? Ông rể thì suốt
    ngày lầm lầm, lì lì không nói một lời, nên mình cũng
    chẳng biết nó thương hay nó ghét. Thôi thì cứ cắn răng
    mà chịu!!

    Nói xong cụ rơm rớm nước mắt. Ðều đều, sáng sớm cụ
    bưng một thúng xôi bắp nóng hổi (người Bắc gọi là xôi
    lúa. Có lần Mai ngây thơ hỏi: Cụ ơi, lúa làm sao mà nấu
    thành xôi được hả cụ? Cụ cười khoe hàm răng đen: À,
    thì từ xưa người ta vẫn gọi thế!), đi một vòng tuốt
    vô xóm trong độ hai tiếng đồng hồ là hết nhẵn.

    Nhà cụ còn một nhân vật mà Mai rất thích là chú Phong,
    em họ chú Thịnh. Chú Phong thuộc loại bạch diện thư sinh,
    tuổi chỉ độ ba mươi, ăn nói duyên dáng. Ðôi khi chú qua
    nhà Mai chơi, gặp bữa cơm, má mời:

    - Mời chú dùng ba hột cơm với gia đình tui cho vui.

    Chú giả bộ sửng sốt:

    - Trời, bà chị chỉ mời em đúng có ba hột cơm thôi à?
    Chưa đủ cho em nhét kẽ răng nữa là!!

    Cả nhà ai cũng cười má, vì tuy ở Sai Gòn mấy năm rồi
    mà vẫn không bỏ được cái câu "ăn ba hột cơm cho chắc
    bụng." Ba nói ba hột cơm của má bây chắc là ba hột cơm
    Thạch Sanh! Cụ Hiền kể cho má nghe hồi còn ngoài Bắc,
    gia đình chú Phong ở dưới quê. Chú bị tảo hôn nên mới
    lên mười đã bị nhà cưới cho một cô vợ tới hai mươi
    cái xuân xanh. Lúc hết tiểu học, chú phải lên Hà Nội ở
    trọ để học tiếp. Mỗi lần về quê chơi trở lên, cô
    vợ có phận sự phải theo hộ tống ông chồng hỉ mũi
    chưa sạch này. Có điều rất mất mặt bầu cua là chú đi
    vé trẻ con và cô vợ thì phải mua vé người lớn. Khỏi
    nói, với làn sóng di cư năm 54, chú rất hồ hỡi đơn
    ca bản: Tung cánh chim tìm về tổ... khác. Chú âm thầm theo
    gia đình chú Thịnh xuống Hải Phòng lên tầu há mồm đi
    một lèo vô Nam.

    Khít vách nhà cô Bảy Huệ là gia đình cô Tư Anh (em bà
    con của thiếm Ba Lâm, chủ tiệm cà phê). Cô Tư ốm yếu
    xanh xao, lúc nào cũng buồn rười rượi! Chớ vui sao
    được mà vui? Mới ba mươi hai cái xuân xanh mà cô đã
    phải "quản lý" một đàn con bảy đứa! Con Mỹ Linh lớn
    nhứt lên mười và thằng cu út mới biết bò. Ông chồng
    lính kín của cô tối ngày say sưa lại mắc chứng bịnh
    ghen kinh niên. Ði làm thì thôi, về nhà là ổng kiếm
    chuyện gây gỗ, đánh đập cô rất tàn nhẫn. Tiếng la
    hét, khóc lóc từ nhà cô vọng ra hà rầm. Mới đầu chú
    thiếm ba Ba Lâm còn nóng ruột em, chạy qua can gián, nhưng
    bị ông em rể trời đánh này "xực" luôn:

    - Bộ anh chị là đồng lõa của con vợ tui hay sao mà xía
    vô? Muốn ở tù rục xương hả?

    Chú thiếm đành phó mặc cô em với định mệnh đau thương!
    Mai có gặp cái thằng cha ác ôn đó vài lần, mà lần nào
    cũng thấy cặp mắt (chắc là đỏ ngầu) của hằn dấu kỹ
    sau cặp kiến đen, mặt mũi sần sùi coi rất dữ dằn,
    sặc mùi... lính kín!

    Giữa tiệm cà phê chú Ba Lâm và nhà bác ba Ðại là con
    hẻm chạy ngoằn ngoèo vô rất sâu trong xóm (sở dĩ nó
    ngoằn ngoèo là vì bà con trong hẻm khi cất nhà không thèm
    theo một nguyên tắc nào cả mà tùy hứng, lồi ra thụt vô
    một cách "tự ro." Vì vậy mà tất cả càc con hẻm ở cái
    đất Sài Gòn đều ngoằn ngoèo như những cái ruột gà!).
    Phiá mặt đường, ngay góc tiệm cà phê là giang sơn của
    bà Năm Hậu. Ðối với Mai lúc đó thì bà đã già lắm
    rồi. Chiếc khăn rằn đỏ quanh năm trùm mái tóc bạc
    trắng. Khuôn mặt và hai bàn tay nhăn nheo, đen sạm ví
    suốt ngày dãi nắng, dầm mưa. Không chồng cũng chẳng
    có con, bà thui thùi một mình trong căn nhà lá ngay phía
    sau nhà bác Ba Ðại và sống nhờ vào cái sạp hàng nhỏ xíu
    trước quán cô Ba Lâm. Cái sạp gỗ cao hơn mặt đường
    độ hai tấc. Trên đó bày đủ thứ (mà trăm phần dầu
    là nhằm vào các bà, các cô và các đấng... nhi đồng):
    cóc (được gọt vỏ, tỉa ra từng cánh để xỏi cho lẹ),
    ổi mân, chùm ruột, me, xoài sống... bên cạnh tô muối
    ớt giã đỏ tươi và tô mấm ruốt để chấm những thứ
    kể trên. Vài hũ đựng kẹo, thèo lèo cứt chuột, bánh in,
    bánh tai heo... và cái món mà bà moi tiền tụi nhóc nhiều
    nhứt là món khô mực nướng. Từng miếng khô cắt vuông
    vức độ bốn ngón tay, được nướng trên lửa than (đựng
    trong cái soong nhôm cũ). Lúc chín tới, bà để lên trên
    một cái thớt me dày cộm, rồi dùng cái búa nhỏ đặp nhẹ
    cho tới khi miếng khô mực tơi ra, sau đó mới phết lên
    trên một lớp tương ớt mỏng (mới hồi tưởng lại đã
    chảy nước miếng!). Tội nghiệp bà, bữa nào nắng ráo
    thì khá, những hôm mưa dầm, chẳng có ma nào mua, lại còn
    bị nước mưa tạt vô ướt nhẹp, phải dọn hàng về sớm.
    Phần lớn, số tiền má cho Mai đều chạy tuốt vô túi bà
    năm Hậu qua những trái cóc, ổi, khô mực nướng, phần
    còn lại nộp mạng cho cái xe nước đá nhận trước nhà
    con Bích Thủy (má không cho chơi với nhỏ này vì trên đầu
    nó có nuôi khoảng... một triệu con chí! Chỉ cần vén
    một nhánh tóc lên thôi, là cả một sư đoàn chí đực,
    chí cái, chí mén rơi xuống ào ào như sao sa lá rụng! Về
    sau nó phải cạo trọc đầu mới thanh toán nổi cái dám chí
    khổng lồ đó. Vậy mà ở trường, thầy nào, cô nào cũng
    cố gắng nhét cho bằng được vô đầu đám học trò vô
    tội cái câu: ở đời có... chí thì nên! Hay có lẽ tại
    má chưa từng nghe câu này nên mới cấm Mai không được
    có chí? Hỡi ơi bà đâu có biết cái hậu quả tại hại
    Mai phải gánh chịu là cho tới bây gìơ, Mai chẳng có một
    ly ông cụ ý chí nào hết. Làm cái gì cũng bỏ dở nửa
    chừng!!!)

    Buổi tối, khi đèn đường bắt đầu bật sáng, không
    biết từ đâu một chiếc xe mì được đẩy tới trấn
    thủ ngay phiá trước nhà bác Ba Ðại, dưới tàn cây trứng
    cá. Bao giờ cái tiếng tắc xịt, tắc xịt của hai thanh gỗ
    cũng vang lên từ xa, trước khi bóng dáng chiếc xe mì
    xuất hiện. Mùi thơm từ mấy thùng nước lèo xông lên
    điếc mũi. Chiếc xe đẹp hết ý. Bên trên những thùng
    nước lèo và dưới cái mái nho nhỏ che mưa nắng là một
    giàn kiếng có bốn mặt. Một mặt được vẽ sự tích
    Tề Thiên Ðại Thánh - Một mặt vẽ sự tích Tiết Ðinh
    San cầu Phàn lê Huê và hai mặt nhỏ hai bên chỉ vẽ chim
    chóc, hoa lá, tất cả đều tô mầu sắc rực rỡ. Chủ
    nhân là chú Woòng, người dong dỏng cao, trạc độ ba mươi
    ngoài, lúc nào cũng tươi cười, tay xóc mì lẹ như người
    ta múa kiếm. Mỗi lần anh Hai Răng vô thăm bác Ba đều
    được đám em út "queo - cơm" hết mình, vì mười lần
    hết chín anh cho phép "xực" mì thả cửa.

    Tới trễ hơn xe mì một chút là gánh cháo huyết của một
    ông Tàu già. Mai không biết tuổi, nhưng thấy ông già lắm,
    lại ớm yếu hom hem. Tuy vậy tiếng rao cháo... huyết... ết...
    của ổng còn vang rất xa. Cho tới bây giờ, Mai chưa được
    ăn lại một tô cháo huyết nào ngon như những tô cháo huyết
    của Ông Tàu già ngày xửa ngày xưa. Những hạt gạo trắng
    ngần, mở bung, đặc sánh lại với nhau. Những miếng huyết
    màu đỏ sậm (không bao giờ vụn vỡ khi cháo bị khuấy lên)
    mềm dịu trên đầu lưỡi. Cái kéo trong tay ông cắt xầm
    xập những miếng dầu cháo quẩy vàng rợm, dòn tan nhanh
    thoăn thoắt. Rắt chút tiêu, thêm chút hành lá đã có một
    tô cháo huyết thơm ngon, béo ngậy dù chẳng có một miếng
    thịt nào...

    Sau này nghĩ lại Mai thấy thiệt hú vía. Vì ngoài hai cái
    địa danh rất ư là bất lợi: ngã Ba Chú Ía và ngã Năm
    Chuồng Chó, ba má lại chọn đúng cái ngã Tư Bình Hòa để
    cư ngụ. Giống y như tên, cái xóm nhỏ của Mai thiệt là
    hiền lành, dễ thương. Ngoài cái ông lính kín say sưa và
    hay ghen ẩu kia, mọi người đối xử với nhau rất thân
    tình (ngay cả cô Bảy Huệ, tuy mang tiếng làm bé ông Kiện
    mà cả xóm cũng không ai nhìn cô bằng cặp mắt khinh khi rẻ
    rúng). Mai không hề thấy chuyện trộm cướp xảy ra lần
    nào. Khi cô út của Mai dọn nhà ra Nha Trang buôn bán, cô
    nhường cái tiệm tạp hóa của cô lại cho má trông coi. Ba
    má bán căn nhà ở Bình Hòa dọn về Bến Chương Dương,
    gần nhà đèn Chợ quán. Mai không thích lắm, vì cái tiếng
    u u từ nhà đèn phát ra rất là khó chịu. Má nói riết
    rồi cũng quen. Tụi bây thử tưởng tượng những người
    không nhà cửa ở dưới gầm cầu chữ Y, sát bên nhà đèn,
    họ còn chịu được huống chi mình ở xa gần 2 cây số.

    Thỉnh thoảng cả nhà trở về xóm cũ thăm bác Ba Ðại. Bác
    gái "báo cáo": ông Kiện đã ly dị bà vợ, chia đôi số
    taxi và bây giờ chánh thức ở luôn với cô Bảy Huệ. Ðể
    đền đáp cái tình sâu nghĩa nặng này, Cô sanh thêm cho
    ổng 2 nhóc tí nữa. Hèn chi đi ngang nhà cổ thấy đã lên
    thêm một từng lầu. Thôi cũng mừng cho cổ. Bà cụ Hân theo
    con rể đổi về miệt Hậu giang, mất liên lạc luôn (tuy có
    lời đính ước giữa chị Thơ và cô Lành, cho đôi trẻ là
    cu Phương với con bé Lan, sanh cùng lượt với cu Phương).
    Cô Lành tốt sữa nên con bé tròn như cái hạt mít, cặp
    mắt đen lánh như hai hột nhãn lồng. Chú Phong nhứt định
    ở lại Sài Gòn, tiếp tục cuộc đời độc thân vui tính.
    Gia đình bác Hân làm ăn khấm khá, đổi ra căn nhà ngoài
    mặt tiền đường, có trương bảng hiệu đàng hoàng. Cô
    Tư Ánh sau lần sẩy thai vì bị ông chồng lính kín "âu
    yếm" hơi nặng tay, đợi thằng chả đi làm, cô dẫn bầy
    con bảy đứa trốn luôn về nhà cha mẹ cổ ở tuốt dưới
    Trà Vinh. Ông ta tìm xuống, năn nỉ cách mấy cổ cũng nhứt
    định hát bài "Kiếp nào có yêu nhau" của nhạc sĩ Phạm Duy,
    trong đó có những câu rất hợp với cô như: Ðừng nhìn
    nhau nữa anh ơi - Xa nhau đã xa rồi, quên nhau đã quên rồi
    v.v. và v.v.! Ông ta đành trở về Sài Gòn tiếp tục tìm
    vui trong men rượu đắng...

    Phần bà Năm Hậu sau một trận sưng phổi nặng vì trúng
    mưa, cũng đã từ trần. Hàng xóm láng giềng kẻ ít người
    nhiều, đóng góp lại, làm cho bà một cái đám tang nho nhỏ.
    Vậy cũng xong một đời cô quạnh! Chỉ có xe mì chú Woòng
    và gánh cháo huyết của ông Tàu già vẫn bền theo năm
    tháng...

    Ôi cái xóm nhỏ thân thương. Với muôn vàn nhớ nhung, nhưng
    Mai không muốn sống lại cái cảnh ngỡ ngàng của Từ Thức,
    khi giã biệt chốn Thiên Thai đế trở lại làng xưa...
    Biết bao vật đổi sao dời. Xóm Bình Hòa muôn đời là
    một kỷ niệm long lanh trong tâm tưởng của Mai!.​

    Tiểu Thu
    Similar Threads
Working...
X
Scroll To Top Scroll To Center Scroll To Bottom