• Nếu đây là lần đầu tiên bạn ghé thăm Trang nhà Chút lưu lại, xin bạn vui lòng hãy xem mục Những câu hỏi thường gặp - FAQ để tự tìm hiểu thêm. Nếu bạn muốn tham gia gởi bài viết cho Trang nhà, xin vui lòng Ghi danh làm Thành viên (miễn phí). Trong trường hợp nếu bạn đã là Thành viên và quên mật khẩu, hãy nhấn vào phía trên lấy mật khẩu để thiết lập lại. Để bắt đầu xem, chọn diễn đàn mà bạn muốn ghé thăm ở bên dưới.

Thông báo Quan trọng

Collapse
No announcement yet.

Máu và nước mắt vẫn đổ trên quê hương

Collapse
X
 
  • Filter
  • Time
  • Show
Clear All
new posts

  • Máu và nước mắt vẫn đổ trên quê hương

    Trong những ngày đầu năm mới này, dư luận tại Việt Nam xôn xao vụ chống lại lệnh cưỡng chế ở Hải Phòng Súng đã nổ và dậy lên râm ran bao ý kiến tranh biên. Giống như chuyện xưa vụ án đồng Nọc Nạn cách đây khá lâu

    Vụ án Nọc Nạn
    Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
    Vụ án Nọc Nạn (tiếng Pháp: l’Affaire de Phong Thanh) là vụ án lớn về tranh chấp đất đai xảy ra năm 1928 tại làng Phong Thạnh, quận Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu (nay là ấp 4, xã Phong Thạnh B, huyện Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu) giữa một bên là gia đình nông dân Biện Toại, Mười Chứcvà bên kia là giới địa chủ và quan chức chính quyền thực dân Pháp. Trong vụ án, đã có năm người thiệt mạng. Vụ án là một ví dụ điển hình của chính sách phân chia và quản lý ruộng đất bất công tại Nam Kỳ dưới thời Việt Nam thuộc Pháp. Sau này, vụ án được chính quyềnCộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam coi như một biểu hiện của sự đấu tranh và phản kháng của người nông dân với chính quyền thực dân Pháp.
    Mục lục
    [ẩn]
    • 1 Diễn tiến vụ việc
    o 1.1 Hương chánh Luông khẩn đất
    o 1.2 Sự can thiệp của Hoa kiều Mã Ngân
    o 1.3 Sự can thiệp của bà Hà Thị Tr.
    o 1.4 Bi kịch đồng Nọc Nạn
    • 2 Phiên tòa
    o 2.1 Lời khai
    o 2.2 Biện hộ của luật sư
    o 2.3 Tuyên án
    • 3 Dư luận
    • 4 Di sản
    o 4.1 Trong các tác phẩm văn nghệ
    o 4.2 Di tích Nọc Nạn
    • 5 Tham khảo

    [sửa]Diễn tiến vụ việc
    [sửa]Hương chánh Luông khẩn đất
    Trước năm 1900, một nông dân đến khai phá khu rừng ở rạch Nọc Nạn, được một diện tích canh tác rộng 73 ha. Năm 1908, ông nông dân này chết, để lại đất cho con là Hương chánh Luông. Do khi gia đình Hương chánh Luông tiến hành khai phá, tỉnh Bạc Liêu còn hẻo lánh, việc đo đạc ruộng đất để lập bản đồ đất đai chậm trễ hơn so với các tỉnh khác ở Nam Kỳ.
    Năm 1910, Hương chánh Luông mới làm đơn chính thức xin khẩn 20 ha đất và chịu đóng thuế trên diện tích này. Đơn của ông được chính quyền chấp nhận bằng văn bản. Năm 1912, gia đình Hương chánh Luông lại làm đơn xin chính quyền đo đạc và cấp bằng khoán (giấy chứng nhận sở hữu đất) chính thức cho toàn bộ diện tích đất canh tác 72 ha. Chủ tỉnh Bạc Liêu đã chấp thuận và trao cho hương chánh Luông bản đồ phần đất nói trên.
    Năm 1916, một người tên là Tăng Văn Đ. kiện lên chủ tỉnh Bạc Liêu yêu cầu không cấp đất cho Hương chánh Luông với lý do ông Đ. cũng có góp sức khẩn hoang. Nhà chức trách xử ông Đ. thua kiện, vẫn cấp giấy tờ đất cho ông Luông, nhưng cắt 4,5 ha cho Đ.. Ông Luông được cấp tờ bằng khoán tạm số 303 đề ngày 7 tháng 8 năm 1916.
    [sửa]Sự can thiệp của Hoa kiều Mã Ngân
    Khi ông Luông qua đời, người con trai cả Biện Toại thừa kế phần đất nói trên. Năm 1917, một người Hoa kiều giàu khét tiếng ở Bạc Liêutên là Mã Ngân, vẫn được gọi là bang Tắc, muốn tranh chiếm đất đai của nhà Biện Toại. Là người rành rẽ luật lệ, ông bang Tắc mua lại phần đất giáp ranh nhà Biện Toại của bà Nguyễn Thị Dương, nhưng trong hợp đồng ghi “bán phần đất với ranh giới bao trùm luôn khoảnh đất mà anh em Biện Toại đang khai thác”. Ông bang Tắc cũng biết rõ đất của nhà Biện Toại mới chỉ có bằng khoán tạm.
    Tranh chấp đất đai bắt đầu nổ ra, hai phía thưa kiện nhau bốn lần lên chủ tỉnh Bạc Liêu và bốn lần lên Thống đốc Nam Kỳ, lên cả Toàn quyền Đông Dương. Năm 1919, bang Tắc sai tá điền xông qua phần đất Biện Toại đốt một căn chòi ruộng và giết một con trâu để dằn mặt, nhưng anh em Biện Toại không phản kháng, mà chờ đợi kết quả từ nhà chức trách. Viên quan phủ H., chủ quận Giá Rai, theo dư luận nghi ngờ, đã nhận tiền của bang Tắc và yêu cầu chia đôi phần đất: Biện Toại một nửa, bang Tắc một nửa.
    Cũng năm 1919, quan phủ Ngô Văn H. được cử giữ chức chủ tịch Hội đồng phái viên (commission administrative) có trách nhiệm khảo sát đất đai, chính thức cấp bằng khoán đất ở khu vực làng Phong Thạnh. Hội đồng này xác nhận phần đất của gia đình Biện Toại thuộc về bà Nguyễn Thị Dương, và nay là của ông bang Tắc.
    Ngày 13 tháng 4 năm 1926, Thống đốc Nam Kỳ ký nghị định bán sở đất 50 ha trên phần đất của Biện Toại với giá 5.000 đồng cho bang Tắc. Đến đây, chính quyền chính thức công nhận phần đất mà gia đình Biện Toại đã hai đời khai thác và sở hữu là của bang Tắc. Anh em Biện Toại rất căm phẫn và chống đối ra mặt. Ông bang Tắc không dám làm to chuyện và bán sở đất 50 ha cho một người rất quyền lực: bà Hà Thị Tr., mẹ vợ của người anh ruột ông phủ H..
    [sửa]Sự can thiệp của bà Hà Thị Tr.
    Bà Tr. bắt đầu đòi anh em Biện Toại phải nộp địa tô, coi họ như tá điền trên chính phần đất họ đã khai khẩn. Ngày 6 tháng 12 năm 1927, bà Tr. xin được án lệnh của tòa cho phép tịch thu tất cả lúa của anh em Biện Toại. Ngày 13 tháng 2 năm 1928, lính mã tà tới gặp anh em Biện Toại để thực thi lệnh tịch thu lúa, anh em Biện Toại kháng cự. Ngày hôm sau, lính mã tà lại tới lần thứ hai, anh em Biện Toại kháng cự, lính mã tà phải rút lui.
    Trước thái độ cứng rắn của anh em Biện Toại, hương chức làng đã tự ý bắt giữ 24 giờ bà hương chánh Luông, mẹ Biện Toại. Vì thương mẹ, Biện Toại hứa không kháng cự, bà hương chánh Luông được thả về. Tối ngày 14 tháng 2 năm 1928, anh em gia đình Biện Toại tụ họp, làm lễ lạy ông bà, bà hương chánh Luông cũng được các con lạy, gọi là báo hiếu lần chót. Anh em Biện Toại trích huyết thề ăn thua, không sợ chết. Họ rút thăm để ông bà chỉ định ai là người hy sinh đầu tiên. Lần đầu, cô em gái tên Trọng rút được thăm. Anh em yêu cầu bốc lại, nhưng lần thứ hai, cô Trọng cũng rút được thăm. Cô nói với các anh: “Ông bà đã dạy, em xin liều chết!”
    [sửa]Bi kịch đồng Nọc Nạn
    Thảm trạng xảy ra vào sáng 16 tháng 2 năm 1928. Khoảng 7g, hai viên cò Pháp là Tournier và Bouzou cùng bốn lính mã tà từ Bạc Liêu đến Phong Thạnh để tiếp tay với viên chức làng tịch thu lúa của gia đình Biện Toại. Đến gần đống lúa, Tournier yêu cầu hương chức làng phải mời một người trong gia đình ra chứng kiến việc tịch thu lúa. Mười lăm phút sau, cô Nguyễn Thị Trọng, em của Biện Toại, dắt theo một bé gái của Trọng tên Tư, 14 tuổi, đi ra. Tournier đuổi cô Trọng, vì cho cô là phụ nữ và còn nhỏ tuổi, không thể chứng kiến việc đong lúa. Cô Trọng không đi, còn yêu cầu khi đong lúa xong phải ghi cho cô một tờ biên nhận đã đong bao nhiêu lúa.
    Tournier từ chối và còn tát tai cô Trọng. Cô Trọng rút ra một cây dao nhỏ. Tournier đập bá súng vào cô làm cô ngất đi. Bouzou thì tước dao khỏi tay cô Trọng, trong lúc lấy dao, ông này bị một vết thương nhỏ không đáng kể ở tay. Đứa cháu tên Tư bèn chạy về nhà báo. Anh em Biện Toại từ nhà chạy ra, mang theo dao mác gậy gộc. Họ chia thành hai tốp, tốp đầu do Mười Chức, em ruột Biện Toại, cầm đầu. Tốp thứ nhì do bà Nghĩa, vợ Mười Chức, cầm đầu, tổng cộng có năm người đàn ông và năm phụ nữ. Tournier ra lệnh cho lính chuẩn bị ứng phó và có bắn chỉ thiên, nhưng Mười Chức không dừng lại. Tournier bèn bắn vào Mười Chức. Bị thương nặng, nhưng Mười Chức vẫn cố gắng cầm mác đâm trúng bụng Tournier rồi mới ngã xuống.
    Bạo lực trở nên không thể kiểm soát. Bouzou rút súng bắn bị thương nặng bốn người bên phía nhà Biện Toại. Hết đạn, Bouzou lại lấy súng của Tournier bắn tiếp, làm nhiều người thiệt mạng. Trong sáng hôm đó, Mười Chức và vợ đang mang thai, bà Nghĩa, một người anh tên Nhẫn, đều chết. Nhịn, Liễu (hai em Mười Chức) bị thương nặng. Ba ngày sau, Nhịn chết ở bệnh viện. Về phía nhà cầm quyền, Tournier thiệt mạng ngày 17 tháng 2 ở bệnh viện Bạc Liêu.
    [sửa]Phiên tòa
    Tòa Đại hình Cần Thơ xét xử vụ án Nọc Nạn ngày 17 tháng 8 năm 1928. Chánh án là De Rozario, công tố viên là Moreau. Hội thẩm là ông Sự. Các luật sư biện hộ cho gia đình Biện Toại là người Pháp, Tricon và Zévaco, theo lời nhờ của nhà báo Lê Trung Nghĩa. Hai ông này đều đứng ra biện hộ miễn phí.
    [sửa]Lời khai
    Ông phủ Tâm, viên chức phụ trách đất đai ở tỉnh Bạc Liêu, nói giấy tờ lưu trong sổ bộ của nhà chức trách về tờ biên lai cấp đất cho hương chánh Luông năm 1910 đã bị mất cắp. Điều này gây ra nghi ngờ có khả năng hồ sơ trong văn khố cũ bị thủ tiêu có lợi cho những kẻ cường hào.
    Hương thân làng Phong Thạnh Hồ Văn Hi xác nhận Tournier là người nổ súng trước. Mười Chức chỉ đâm Tournier sau khi đã trúng đạn.
    Lâm Văn Kiết, một thành viên trong Hội đồng phái viên xác nhận phần đất là do Hương chánh Luông và con là Biện Toại khai khẩn trước. Công tố viên nói ông Kiết không dám cãi cấp trên của mình là tri phủ H., người theo phe bang Tắc và là chủ tịch Hội đồng phái viên.
    Tri phủ Ngô Văn H. cho rằng vấn đề đất đai quá phức tạp, mất thì giờ, nên ông đã buông xuôi. Công tố viên rất giận dữ, cho rằng lề lối làm việc của ông H. quá bừa bãi, không thể viện lý do mất thì giờ mà không phân xử rạch ròi tranh chấp đất. Bị luật sư chất vấn, ông H. thú nhận anh ruột của ông có hùn vốn làm ăn với bang Tắc. Sau vụ án, ông H. bị bãi chức tri phủ.
    Khi bang Tắc ra làm chứng, ông này nói không hối hận gì. Viên hội thẩm bức xúc nói: “Dân chúng nói đáng lý ra ông phải chết thay cho viên cò Tournier”.
    Trước khi buộc tội, công tố viên Moreau yêu cầu tòa thận trọng. Công tố viên nhắc lại vụ án Ninh Thạnh Lợi năm 1927. Ông cho rằng vụ này chứng tỏ bất ổn xã hội đang gia tăng và vấn đề đất đai là hết sức nghiêm trọng. Moreau nói tình cảnh của gia đình Biện Toại rất đáng thương: bị những kẻ không tình cảm (hommes sans coeur) đến cướp đất, rồi bọn có quyền thế tiếp tay với bọn cường hào. Công tố viên yêu cầu tòa tha bổng Biện Toại, cô Liễu (em Biện Toại) và con là Tia, giảm khinh cho cô Trọng, cho Miều (em rể Biện Toại, chồng cô Liễu).
    [sửa]Biện hộ của luật sư
    Luật sư Tricon đại diện cho bên bị can nhận định nguồn gốc của vụ án là vấn đề điền địa. Ông cho rằng chính sách ruộng đất thời Nguyễn công bằng và hợp thực tế, còn luật lệ do người Pháp đặt ra chưa được áp dụng đúng, thiếu thực tế, những người trong Hội đồng phái viên chỉ ngồi một chỗ, chưa hề bước ra sở đất mà họ xem xét, chỉ quyết định dựa trên báo cáo.
    Luật sư Tricon ca ngợi tinh thần lao động khẩn hoang của gia đình Biện Toại: họ phải đấu tranh với thiên nhiên, với bọn cường hào, với cả các thủ tục pháp lý. Luật sư Tricon nói:
    Chúng ta, những người Pháp, nên xây dựng ở xứ này một chế độ độc tài. Không phải độc tài bằng sức mạnh của súng đạn, nhưng là sự độc tài của tình cảm cao đẹp (Non pas de la dectature de la forc du mousqueton, mais de la dictature du couer).
    Luật sư Zévaco ca ngợi lời buộc tội của công tố viên. Luật sư cho rằng chính sách của nhà nước thì tốt, nhưng người thừa hành xấu đã làm cho chính sách trở nên xấu đối với dân chúng. Zévaco nói nên sa thải vài ông phủ, ông huyện bất hảo và vạch rõ hành động của cặp bài trùng bang Tắc-tri phủ H. đã dẫn đến tấn thảm kịch Nọc Nạn.
    Luật sư Zévaco xin tòa tha thứ cho các bị can. Ông nói:
    Lần này sẽ có một bà lão khóc về cái chết của bốn đứa con. Bốn người này đã chết, vì họ tưởng rằng có thể tự lực gìn giữ phần đất ruộng mà họ đã từng rưới mồ hôi và máu của họ lên đó.
    [sửa]Tuyên án
    Tòa Đại hình Cần Thơ tuyên án: Biện Toại, Nguyễn Thị Liễu (em út của Toại) và Tia (con trai của Toại) được tha bổng. Cô Nguyễn Thị Trọng, sáu tháng tù (cô đã bị tạm giam đủ sáu tháng). Miều (chồng của Liễu), hai năm tù vì có tiền án ăn trộm.
    [sửa]Dư luận
    Báo chí Sài Gòn lúc bấy giờ đua nhau khai thác vụ Nọc Nạn. Nhà báo xuống tận nơi điều tra. Dư luận từ mọi giới, luôn cả giới thực dân, đều thuận lợi cho gia đình Biện Toại. Họ bị áp bức quá lộ liễu. Họ là những tiểu điền chủ siêng năng nhưng bọn cường hào cấu kết với quan lại tham nhũng đã đưa họ đến đường cùng.
    Các phong trào yêu nước lúc bấy giờ cũng đang sôi nổi. Hai năm trước, 1926, vừa xảy ra đám tang chí sĩ yêu nước Phan Chu Trinh. Đảng Lập hiến của ông Bùi Quang Chiêu cũng vừa ra đời. Dù theo chủ trương Pháp-Việt đề huề, ông Bùi Quang Chiêu chính là người chủ trương tờ báo tiếng Pháp La Tribune Indochinoise. Phóng viên tờ báo này, Lê Trung Nghĩa, là người đã nhờ hai luật sư Tricon và Zévacon biện hộ cho gia đình Biện Toại.
    Tại phiên tòa, trừ tờ La Dépâche l’Indochine, tất cả báo chí Sài Gòn đều có mặt: L’Écho Annamite, Đông Pháp thời báo, L’Impartial,l’Opinion, Le Courrier Saigonnais, Le Phare, La Tribune Indochinoise.
    Sau phiên tòa, các nhân sĩ và đồng bào ở Phong Thạnh như các ông Huỳnh Minh Trí, Nguyễn Duy Biện, Nguyễn Viết Trọng ở Giá Rai, Bùi Văn Túc ở Long Điền, đã làm tiệc cảm ơn hai vị luật sư và các nhà báo Pháp và Việt, theo thói trung hậu và hào hoa cố hữu của người Bạc Liêu. Bà Hương chánh Luông cũng tham dự buổi tiệc này.
    [sửa]Di sản
    [sửa]Trong các tác phẩm văn nghệ
    Vụ án Nọc Nạn xuất hiện trong nhiều tác phẩm văn nghệ sau này
     Bài vè Nọc Nạn, được dân gian sáng tác sau vụ án không lâu
     Vở cải lương Máu thắm đồng Nọc Nạn của tác giả Phạm Ngọc Truyền
     Phim truyền hình năm tập Đồng Nọc Nạn, đạo diễn Trần Vịnh, kịch bản Chu Lai, nhà sản xuất Đài truyền hình Bạc Liêu năm 2004
     Bộ phim truyền hình nổi tiếng Đất phương Nam, do TFS sản xuất năm 1997, cũng có đề cập đến vụ án Nọc Nạn trong một tập phim.
    [sửa]Di tích Nọc Nạn
    Di tích Nọc Nạn, được công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia của Việt Nam, hiện ở ấp 4, xã Phong Thạnh B, huyện Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu. Di tích gồm hai phần: sân phơi lúa và khu mộ ông bà Tám Luông (Hương chánh Luông), cách nhau khoảng 300 m. Sau khi song thân mất, anh em ông Biện Toại đắp một nền mộ rộng khoảng 700 m2, cao 50 cm để an táng và xây nhà mồ. Sau sự kiện Nọc Nạn, những người thiệt mạng được chôn rải rác gần đó. Đến năm 1963 được quy tập về khu mộ. Những người anh em ông Mười Chức mất sau này cũng được an táng tại đó.
    Hiện nay bảo tàng Bạc Liêu còn lưu giữ ảnh những người đã bị giết trong vụ Nọc Nạn và những người tham gia cuộc đấu tranh của anh em Biện Toại. Ngoài ra còn có một ảnh chân dung các luật sư biện hộ cho gia đình nạn nhân. Nhà nước Việt Nam đã đầu tư trùng tu và mở rộng khu di tích lên khoảng 3 ha, gồm các hạng mục khu mộ gia đình Mười Chức, nhà tưởng niệm, nhà trưng bày, cụm tượng tái hiện trận đánh giữa gia đình Mười Chức và binh lính chính quyền cao bằng người thật.
    [sửa]Tham khảo
     Lịch sử khẩn hoang miền nam - Sơn Nam (nhà xuất bản Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 2009)
     Bài vè Nọc Nạn - vô danh (1930)
     Loạt bài của tác giả Lê Trung Nghĩa trên báo La Tribune Indochinoise (Sài Gòn, từ ngày 17 tháng 8 đến ngày 24 tháng 8 năm 1928)


    “Tù nhân” Ba Sương & “tội phạm” Văn Vươn
    Đất là thiêng liêng, là mồ hôi, là nước mắt và trộn cả máu. Thời hội nhập, đất càng giá trị. Nếu không hiểu triết lý đơn giản này và chính quyền không biết đối xử với đất thì tiếng khóc còn đau đớn và máu còn tiếp tục đổ.
    “Tù nhân” Trần Ngọc Sương

    Bà Ba Sương. Ảnh Internet
    Nhiều người biết bà Trần Ngọc Sương là Anh hùng lao động, con gái của Giám đốc tiền nhiệm Trần Ngọc Hoằng. Người cha đã một nắng hai sương với hàng chục ngàn nông dân nơi đây, đưa Sông Hậu thành nông trường anh hùng.
    Ngày 19/11/2009, Tòa án nhân dân TP Cần Thơ đã đưa vụ án “Lập quỹ trái phép” tại Nông trường Sông Hậu ra xét xử phúc thẩm. Tại đây, HĐXX đã tuyên y án sơ thẩm 8 năm tù giam, buộc bồi thường hơn 4,3 tỷ đồng đối với bà Trần Ngọc Sương, nguyên Giám đốc Nông trường.
    Không ai có thể biết động cơ đứng đằng sau vụ án này là gì. Chỉ biết rằng, hàng nghìn hecta đất của nông trường do mấy 16 ngàn nông dân đào đắp, khai phá từ 30 năm nay, bây giờ có thể thành miếng mồi ngon cho các nhà đầu tư.
    Người ta ngạc nhiên về một người anh hùng, bị buộc tội dùng quĩ đen mấy tỷ đồng, mà cuối đời bà Sương không nhà, không cửa, ngủ trên một cái giường cá nhân với 8 năm tù đang đợi. Nghịch cảnh rơi nước mắt.
    Vụ án tưởng đi vào quên lãng, nhưng mới đây thôi, người ta lại định đưa bà ra xử. VTC News cho biết, số tiền “quỹ trái phép” tại Nông trường Sông Hậu đã có từ trước năm 1994, đến năm 2000 bà Sương mới làm Giám đốc, nên bà không phải là người “lập quỹ trái phép”.
    Bà Sương đã viết đơn kêu oan gửi tứ phương và nói: “Đối với tôi bây giờ, sức khỏe đã tàn tạ, danh dự bị các cơ quan tiến hành tố tụng ở Cần Thơ và huyện Cờ Đỏ cố tình bôi nhọ. Nếu họ cố tình xử tù tôi, vào tù thiếu thốn đủ thứ lại ốm đau bệnh tật cũng dễ chết sớm, đó là bước đường cùng mà Viện KSND TP Cần Thơ giao và Viện KSND huyện Cờ Đỏ muốn dồn tôi đến chỗ chết. Tôi nghĩ: thà rằng chết trước khi bị đưa ra xét xử còn được nén nhang của bà con cô bác, của hầu hết cán bộ, nhân viên Nông trường Sông Hậu vẫn hằng ngày quý mến và đòi chân lý cho tôi thắp cho hơn là chết ở trong tù trong nỗi oan ức triền miên và sự cô quạnh tột đỉnh”.
    “Tội phạm” Đoàn Văn Vươn

    Anh hùng bám biển Đoàn Văn Vươn
    Anh Đoàn Văn Vươn không nổi tiếng như bà Ba Sương. Cha của anh là đảng viên trung thành tuyệt đối, anh Vươn từng đi bộ đội, một nông dân hiền lành chất phác, chí thú làm ăn, bỏ đại học để chinh phục biển, nhưng bỗng anh trở thành tội phạm chống chính quyền.
    Cách đây hơn một năm (22-7-2010) báo Pháp luật và Đời sống đã đăng về một người được gọi là “Kỳ tài đất Tiên Lãng và cuộc chinh phục lời nguyền của biển”.
    Đó là phóng sự về anh Vươn biến vùng đất khỉ ho cỏ gáy ven biển, không ai thèm để ý, thành một khu đầm nuôi trồng thủy sản rộng hàng trăm hecta. Họ được thuê đất 20 năm, kể từ năm 1993, nhưng nay mới là 2012 thì đã tiến hành thu hồi.
    Theo báo CAND, một số người dân trên địa bàn cho rằng, việc thu hồi đầm nuôi trồng thủy sản của UBND huyện Tiên Lãng có điều chưa minh bạch, chủ trương chia lại đất trong quy hoạch phát triển sân bay vừa không đúng với chủ trương giao đất nông nghiệp lâu dài, ổn định đã khiến cho gia đình anh Vươn và một số chủ đầm khác phản ứng tiêu cực.
    Trước khi tiến hành cưỡng chế, một số chủ đầm đã gửi “tối hậu thư” đến cấp lãnh đạo huyện với nội dung nếu cuộc cưỡng chế xẩy ra, sẽ có đổ máu.
    Mấy ngày qua, anh Vươn được lên mặt báo là do vụ đấu súng với chính quyền, làm sáu công an bị thương. Dân Hải Phòng không dọa suông, máu đã đổ thực sự.
    Đất – mồ hôi, nước mắt và máu
    Từ ngàn đời, để tạo nên những vùng đất phì nhiêu, nuôi sống con người, bao nước mắt và mồ hôi đã đổ xuống. Để bảo vệ đất có cả máu.
    Vụ án bà Ba Sương và nay là vụ đổ máu tại Hải Phòng đều liên quan đến đất. Và còn nhiều vụ khác nữa mà truyền thông chưa có dịp được nói.
    Người nông dân chất phác đổ mồ hôi, sôi nước mắt, biến một vùng khỉ ho cò gáy thành bờ xôi, ruộng mật, thì bỗng có kẻ dòm ngó. Chuyện còn lại là làm việc với người có “thẩm quyền”.
    Đất ở ta là sở hữu toàn dân, nhưng quyết định dùng như thế nào lại nằm trong tay “đầy tớ của nhân dân”.
    Phản ứng khi bị thu hồi đất, có người đi biểu tình, rồi khóc và dọa tự tử như bà Ba Sương. Nhưng có người thề chết như anh Vươn.
    Câu hỏi ở đây là ai đã biến những anh hùng, người lính, đảng viên và cả những người nông dân hiền lành thành tội đồ một cách dễ dàng đến thế.
    Khi tìm ra được nguyên nhân và giải pháp, chắc chắn không còn những anh hùng Ba Sương – tù nhân và người lính Văn Vươn – tội phạm.
    Vĩ thanh
    Tôi chợt nhớ bài diễn văn của ông trùm da đỏ Seattle. Sau khi tạo nên khu vực bang Washington năm 1853, chính phủ Mỹ đã đề nghị người da đỏ ký các hiệp định để mua đất của họ. Người da đỏ biết là không thể nào từ chối được. Ông Seattle (1786-1866), trùm da đỏ, đã đọc một bài diễn văn thống thiết trước thống đốc Isaac Stevens. Diễnvăn này được coi là một tài sản văn hoá vô giá để đời và đã được dịch sang nhiều thứ tiếng.
    Trích đoạn “Làm sao các người có thể mua bán khung trời và hơi ấm của đất? Ý nghĩ đó đối với chúng tôi thật kỳ lạ. Thế nếu chúng tôi không sở hữu cái mát mẻ của không khí và cái lung linh của mặt nước, thì các người làm sao mà mua? Mỗi mẩu đất này đều thiêng liêng cho dân tộc chúng tôi.
    Linh hồn những người da trắng đã quên xứ mình sinh ra khi đi vào giữa các vì sao. Linh hồn những người chết chúng tôi không bao giờ quên trái đất tuyệt vời này, vì trái đất là mẹ của người da đỏ.
    Các ông (người da trắng) phải dạy cho con cháu là đất chúng bước lên được tạo bởi tàn hương của tổ tiên. Dạy cho chúng biết tôn trọng đất, bảo chúng là đất được giầu có bởi đời sống của dòng dõi. Dạy cho con cái các ông những điều mà chúng tôi dạy cho con cái chúng tôi, là đất là người mẹ. Cái gì xẩy đến cho đất sẽ xẩy đến cho con cái của đất. Ai khạc nhổ lên đất là khạc nhổ lên chính mình.”
    Triết lý “sống trong đất, chết vùi trong đất” của người da đỏ là thế.
    Bà Ba Sương và 16 ngàn công nhân nông trường Sông Hậu, rồi hàng chục vạn nông dân “bỗng nhiên mất đất”, kể cả những chủ trại nuôi tôm ở Tiên Lãng (Hải Phòng), cũng yêu đất không khác ông Seattle cách đây 150 năm.
    Nhưng liệu rằng, chính quyền có biết trên đời này có “tình yêu đất” như thế hay không?
    HM. 7-1-2012.
    Nguồn: Blog Hiệu Minh
    http://huynhthanhchiem.blogspot.com/
    huynhthanhchiem@gmail.com
    Similar Threads
Working...
X
Scroll To Top Scroll To Center Scroll To Bottom