• Nếu đây là lần đầu tiên bạn ghé thăm Trang nhà Chút lưu lại, xin bạn vui lòng hãy xem mục Những câu hỏi thường gặp - FAQ để tự tìm hiểu thêm. Nếu bạn muốn tham gia gởi bài viết cho Trang nhà, xin vui lòng Ghi danh làm Thành viên (miễn phí). Trong trường hợp nếu bạn đã là Thành viên và quên mật khẩu, hãy nhấn vào phía trên lấy mật khẩu để thiết lập lại. Để bắt đầu xem, chọn diễn đàn mà bạn muốn ghé thăm ở bên dưới.

Thông báo Quan trọng

Collapse
No announcement yet.

Say Hoa

Collapse
X
 
  • Filter
  • Time
  • Show
Clear All
new posts

  • Say Hoa

    Say Hoa
    Triều Tâm Ảnh

    Vào đời vua Trần Nhân Tông, dưới chân núi thiên thai có một nhà ẩn sĩ họ Khưu, tánh tình lập dị, không màng danh lợi mà quanh năm chỉ say mê hoa kiểng.

    Link" align="left" border="0" alt="" style="padding:7px;" />Gia tài của cha mẹ để lại cũng có trăm vạn, vài chục đám ruộng nhưng lần hồi Khưu ẩn sĩ bán sạch. Hễ nơi nào có giống hoa quý, hoa lạ thì với giá nào chàng cũng mua cho bằng được. Không có tiền mua, chàng đổi bằng của cải, tài sản, chỉ non mười năm sau, nơi khu vườn của chàng đã có hơn trăm loại phong lan, trăm loại lan, ngoài ra các loại danh hoa như trà mi, mẫu đơn, tảo mai, mộc cẩn, thục quỳ, oanh trúc... thì thật không kể xiết.

    Vào nhà, khách phải đi xuyên qua một khu rừng trúc. Trúc cũng không phải là một thứ trúc tầm thường, mà được sưu tầm từ các xứ xa xôi. Có những thứ trúc như Tảo Đằng, Tuyết Đầu, Thiên Bút, Cao Phong, Vân Lôi... chàng phải đặt mua từ các dãy núi Thiên Sơn, Côn Luân tận cực Tây Trung Hoa.

    Qua khỏi khu rừng Trúc, khách phải dừng chân nơi một con suối thơ mộng. Ở đâu đó, nước rỉ ra từ những kẽ đá, trôi lặng lờ trên mặt cuội trắng tinh tinh rồi vỗ nhẹ lên mấy đám cỏ biếc nở hoa li ti ngũ sắc. Cá lội từng đàn đủ thứ, đủ vẻ, giỡn với những hạt bọt nổi phù du nom thanh bình như giữa cõi bồng lai. Đứng mỏi, khách có thể ngồi trên những tảng đá lưu niên cổ đại, tượng đứng, tượng ngồi, tượng nằm, sắc đá loáng thoáng rêu đen, xám, nhợt nhờ sương nước như những bức tranh “vĩnh tịch”.

    Qua suối, bên mép chiếc cầu đá cong cong, ai đó viết nguệch ngoạc vài câu thơ không rõ nét trông cũng phóng khoáng và phiêu bồng quá thể. Một tảng đá dựng thẳng, cao hơn trượng, đầu xám bạc, chân rêu xanh, nổi lên hai câu thơ, nét đại tự sắc mạnh như vệt dao chém giữa hư không:

    “Thiên hạ hốt nhiên đại định
    Tứ thời tịch mịch hoa khai”

    Chẳng có gì hay ở đó, đại ngôn và tầm thường nữa nhưng kể ra vậy là có khí phách, ngang tàng một chút hoặc cuồng ngông một chút thì cũng vậy. nhưng đâu là cái đại toàn? Giữa cái tuyệt bích rơi xuống một vài nét chấm phá thô tháo không tạo cho ta một vài cảm giác mạnh và đột ngột sao?
    Người ta gọi chàng là Khưu ẩn sĩ, nhưng cái danh của chàng, chơi hoa núi Thiên thai đã làm rung động chốn đế kinh và thu hút rất nhiều danh sĩ, đạo nhân, tao nhân mặc khách...

    Hôm kia, qua chân núi Thiên Thai là hai tăng nhân bộ hành phong trần, đến khu rừng trúc, họ dừng chân lại.

    Một người nói:

    “- Cái thú say hoa kiểng thì thế gian chỉ có Khưu ẩn sĩ là một”.

    Người kia đáp:

    “-Họ say hoa thì chúng ta say Phật, “Tục”, “Thanh” hay “thoát” tuy có khác nhau nhưng cũng là một cách “say” đó thôi!”

    Nói xong, y cười ha hả, giở chiếc nón rộng vành bày khuôn mặt ốm thanh tú, đôi mày sắc và nước da sạm đen. Y rất còn trẻ. Tuy khoác chiếc áo nâu rộng đã bạc màu cũng không dấu được nét phong lưu kỳ mỹ.

    Người kia đã đứng tuổi, to lớn, cằm vuông. Y nhăn mặt lại: “-Pháp đệ nói vậy không sợ giảm cái giá trị của đạo ta xuống sao? Hoa mà dám ví với Phật sao?”

    “-Có gì đâu mà Pháp huynh bảo dám và không dám? Tăng nhân trẻ tuổi chợt cao giọng – Phật là Hoa. Hoa là Phật. Phật là tối thắng hoa, diệu thắng hoa. Pháp huynh vì không thấy Phật nên không thấy Hoa. Hoặc giả, Pháp huynh bận đi tìm Phật nên chẳng thấy Hoa bao giờ”. Tăng nhân đứng tuổi nhăn này có vẻ trách móc nhưng lặng lẽ nhẫn nhục không nói gì. Ngay khi ấy có tiếng reo từ rừng trúc vọng lại.

    “-Hay lắm! Hay! Sư bác luận thế nào làm cho kẻ quê mùa dốt nát này bái phục làm sao. Phật là hoa, hoa là Phật, hay lắm!”

    Câu nói vừa xong thì một người gầy gò mặc áo bào xanh chống cây gậy trúc sau vòm cây bước ra, dáng dấp tiêu sái, nhàn thoát khó đoán nổi tuổi tác. Y cung hai tay lại, phong cách lễ độ vừa phải.

    Vị tăng trẻ đáp lễ rồi hỏi:

    “- Ấn giả là chủ nhân chốn kỳ hoa?”

    Người ấy là Khưu Ẩn Sĩ, cười đáp:

    - Vâng, xin thưa! Chữ chủ nhân kia chỉ là lạm dụng, khiên cưỡng. Ai đòi làm chủ hoa thì kẻ đó khi man, thất lễ với trời đất. Kẻ ngu hèn này đâu dám thế. Hoặc giả Sư Bác muốn chỉ dạy một bài học về “tâm pháp” chăng?

    Vị tăng lớn tuổi bây giờ mới quay lại chăm chú nhìn người lạ mặt một hồi:
    -Quả thật danh bất hư truyền. Ngài đúng là phong độ của cao nhân ẩn sĩ họ Khưu! Chúng tôi cam bề thất lễ. Nhưng bây giờ thì cho xin cáo từ!

    Vị Tăng trẻ nói:

    -Pháp Loa Tôn Giả có lẽ chưa về núi, hiện giờ đang còn ở Yên Tử cũng nên. Hay là Pháp huynh ạ ! Chúng ta quá bộ vào trong kia một lát cho mãn nhãn cái kiếp nhân sanh?

    Vị tăng đứng tuổi “hừm” một tiếng:

    “- Hoa sắc, sắc hoa đều là hiện tướng của ma quân. Pháp đệ hãy khá lưu tâm. Sinh tử là việc lớn, trăm năm nào có mấy khắc, chớ có say mê hoa thơm cỏ lạ dọc đường để ngàn thu ân hận.”
    Khưu Ẩn Sĩ tủm tỉm cười:

    - Mời quý Sư Ông, Sư Bác vào tệ xá uống vài chung thanh trà lấy thảo. Pháp Loa Tôn Giả là ngu lão đây vốn có tình quen biết, lúc nào đến Thiên Thai. Đại Sư cũng dừng chân ở đây giây lát để ngắm hoa và thưởng trà. Vị Tăng trẻ nói:

    - Vậy thì xin phép chủ nhân cho chúng tôi được quấy quá.

    Thế là vị Tăng đứng tuổi đành miễn cưỡng đi theo. Cảnh đẹp làm cho vị Tăng trẻ phải ngẩn ngơ, thán phục. Qua cầu, y dừng chân nơi hai câu thơ thật lâu rồi trầm trồ khen ngợi không hết lời. Vị tăng đứng tuổi “hừm” một tiếng rồi xăm xăm đi trước.

    Ôi! Thật là không kể xiết được những kỳ hoa dị thảo ở khắp nơi. Trên cội cây, hốc đá, lối đi, bờ suối triền non... đâu đâu cũng trăm sắc nghìn vẻ. Lời đồn đại của thế gian thật là mười mà chưa nói lên được một. Cảnh trí u nhã làm cho tâm hồn con người lâng lâng lắng dịu. Chủ nhân và vị Tăng trẻ có vẻ tâm đầu ý hợp nên trò chuyện huyên thuyên.

    Khi rời rừng hoa để bước vào “thảo nhai đình”, tức là chái mây nhô ra bờ vực làm nơi thưởng trà, vọng nguyệt, vị Tăng trẻ thốt nhiên ngâm mấy câu thơ lục bát với nhã ý tặng Khưu ẩn sĩ:

    “Trần gian một thoáng không dài
    Có khi mộng hóa liên đài cũng nên!
    Thềm mây đọng bóng chơn thiền,
    Ai ngờ tâm pháp một miền cỏ hoa!”

    Vị tăng đứng tuổi lòng ngổn ngang trăm mối buồn phiền vì người Pháp đệ của mình. Vừa qua chung trà thứ nhất, y đã cắt giọng nói lớn:
    “-Chủ nhân có một đời sống thanh cao lắm, nhưng dám xin thưa thẳng một điều: tự mình có một đời sống nhàn lạc ở nơi góc núi đẹp như tiên cảnh này, danh lợi thị phi đắc thất dường như gió thoảng ngoài tai, dẫu vậy, phải chăng cũng còn ở trong cái “ngã ái” chật hẹp lắm ư?”

    Ẩn sĩ họ Khưu mỉm cười mà rằng:

    “-Dạ Phải, Sư Ông dạy thì phải!”

    Vị Tăng đứng tuổi cười lạt:

    “-Khưu ông mang cốt cách, phong thái của một dật sĩ, năm kinh ba giáo xem chừng cũng đã có ghé mắt xem qua. Vậy thì lời dạy của Thánh Hiền phải chăng là sở đắc này? Trụ xứ này? Một đời sống nhàn lạc tư riêng, chật chội, phó mình buông trôi cho giòng chảy xiết “bộc lưu sinh tử” ?”
    Ẩn sĩ họ Khưu cúi đầu nhũn nhặn:

    “- Dạ phải, Sư Ông dạy chỉ phải!”

    Vị Tăng trẻ thấy thế làm khó chịu:

    “- Pháp huynh sao lắm lời đến thế? Mỗi người ai chí nấy, nhân nào quả nấy, tâm nào cảnh nấy! Đức Thích Ca Đại Sĩ bao nhiêu năm thuyết pháp mà không hề nói một chữ Tu Bồ Đề im lặng thiền duyệt mà Chư Thiên rải hoa! Tâm mà có thể nói được? Pháp mà có thể nói được?”

    Vị Tăng đứng tuổi khuôn mặt thoáng rắn lại, rồi chợt y cười ha hả:

    “- Hay lắm! Cám ơn pháp đệ đã thuyết Bát Nhã tánh không cho ta nghe! Cám ơn Khưu Ẩn Sĩ đã cho bần tăng lãnh hội tri kiến Pháp Hoa Kinh. Thậm tri! Thậm tri! Vậy thì quý ngài cứ tâm đắc thù tạc, cho bần tăng thất lễ khiếu từ!”

    Ẩn sĩ họ Khưu chợt nói:

    “- Xin Sư Ông nán lại một chút. Có mấy đóa “Bạch Vân Trà”, có lẽ vừa mới mãn khai. Đấy là loại hoa tinh khiết, vương giả giữa trăm hoa, không để dành cho Sư Ông thưởng ngoạn thì biết để dành cho ai nữa?”
    Nói xong, ông ta biến mất sau mấy cụm Bích Đào. Lát sau, ông ta mang ra một chậu Trà Mi trắng trang trọng đặt trên phiến đá cẩm thạch.
    Cả hai vị Sư đều sửng sốt.

    Trong chậu, mấy đóa hoa trà mi trắng nõn nường, như lục? như thủy tinh? như sương? Có lẽ chẳng phải thế. Nó như màu nguyệt bạch hoặc như màu bạch ngọc nhìn qua làn trăng mỏng. Cũng không hẳn thế. Thôi, chỉ diễn tả là đẹp lắm, đẹp tuyệt vời, đẹp không có gì so sánh nổi, không có cách gì mà dùng lời được. Từng cánh hoa cong cong xếp lại. Mỗi cánh là mỗi nét yểu điệu, mềm mại của vị tiên nữ. Ngoài ra, có những đường văn tinh vi khi ẩn khi hiện qua ánh sáng đã được chắt lọc tinh khôi, vô nhiễm.

    Khưu Ẩn Sĩ nhìn đôi mắt sửng sốt của hai vị tăng, y mãn nguyện, rung đùi ngâm:

    “Tướng Phật, tướng hoa: vô nhị tướng!
    Tành hoa, tánh Phật: bàn lai đồng!”

    Vị Tăng trẻ cũng nhã hứng , thốt lên một cách sảng khoái:

    “Biệt biệt, nhấn trần vô cá biệt!
    Khán hoa kiến Phật, liễu vô cùng!”

    Khưu Ẩn Sĩ đứng dậy cung tay hoan hỹ tán thưởng. Vị Tăng đứng tuổi chép miệng, chắc lưỡi, ngó lên trời than dài:

    “Ôi! Đảo điên đến thế là cùng! Pháp lộn tâm! Tâm lộn Pháp! Chẳng hiểu đầu đuôi gốc ngọn ra sao mà dám xem Phật, Hoa là đồng đẳng! Khán hoa là kiến Phật. Ôi than ôi! Phật Pháp suy vi đến thế là cùng! Kẻ học Phật thời nay ngông cuồng đến thế là cùng! Ôi! than ôi.”
    Sơ Thu Giáp Tý
    Sống trên đời

    Similar Threads
Working...
X
Scroll To Top Scroll To Center Scroll To Bottom