VÕ SÁO RỪNG YÊN THẾ
Kỳ 1: Nơi phát tích võ sáo
Yên Thế là vùng đất thiêng có truyền thống thượng võ ngàn đời nổi danh với câu ca: Trai Cầu Vồng Yên Thế, gái Nội Duệ Cầu Lim. Ngày nay, rừng thiêng Yên Thế còn lưu truyền rất nhiều bài võ cổ truyền có giá trị của nhiều môn phái võ lâm khác nhau trong đó võ sáo được coi là một môn đặc dị được nghĩa quân Yên Thế sử dụng khiến quân thù nhiều phen khiếp sợ. Khởi nghĩa tan rã, bài võ dần mai một và tưởng như mất dấu nhưng duyên may đã tìm được truyền nhân duy nhất chính là võ sư Trịnh Như Quân.
Ông Trịnh Như Quân biểu diễn một thế võ với cây sáo
Đón chúng tôi tại cầu Xương Giang (TP Bắc Giang) là một người đàn ông với vóc dáng hơi nhỏ nhưng khoẻ khoắn với khuôn mặt phúc hậu và nụ cười rất tươi. Ít ai có thể ngờ đó là một võ sư đã bước vào tuổi lục tuần nổi tiếng một thời ở TP Bắc Giang.
Ông chính là võ sư Trịnh Như Quân. Đứng trên cầu, chỉ dòng sông, ông tự hào khoe đây chính là dòng sông mà Đặng Thế Phong lấy cảm hứng sáng tác Con thuyền không bến. Bắc Giang vùng đất Kinh Bắc có bề dày truyền thống với tên đất, tên sông và những kỳ nhân lưu dấu trong lịch sử nước nhà.
Bước chân người tầm võ
Ông Trịnh Như Quân cho biết, mình bắt đầu tiếp cận với võ sáo trong một dịp may khi còn làm việc ở sở Thể dục thể thao Hà Bắc cũ. Lúc ấy vào khoảng năm 1989, sở đã có chủ trương sưu tầm những di sản còn tiềm ẩn trong dân gian đặc biệt là những bài võ cổ truyền đã thất lạc. Ông Trịnh Như Quân là một trong những người được cử đi trong đợt ấy. Suốt một năm trời, ông Quân lội bộ qua không biết bao bản làng, len lỏi tới tận các vùng nằm sâu trong rừng Yên Thế nơi còn lưu giữ những câu chuyện, những truyền thuyết của nghĩa quân Đề Thám.
Yên Thế vào giữa thế kỷ 19 trước khi Hoàng Hoa Thám dấy binh khởi nghĩa vốn là vùng đất hoang vu chưa được khai phá. Đây là nơi tá túc của nhiều toán giặc khách, thổ phỉ thường xuyên cướp phá các vùng lân cận đồng thời là nơi nông dân lưu tán hoặc đang bị truy đuổi đến ẩn náu và sinh sống từ những năm 60 và 70 của thế kỷ 19. Họ chọn nơi đây làm nơi cư trú và đã công khai chống lại triều đình. Và khi Hoàng Hoa Thám dấy binh khởi nghĩa chống Pháp thì anh hùng từ nhiều vùng tụ về đây. Chính vì thế mà ngoài những môn võ cổ truyền của vùng, Yên Thế còn du nhập thêm nhiều môn phái võ lâm của anh hùng tứ xứ.
Sở dĩ nghĩa quân Đề Thám khiến giặc Pháp khiếp sợ vì ngoài việc chọn được căn cứ địa hiểm yếu, họ còn được vũ trang nhiều vũ khí. Ngoài những vũ khí như súng ống, thuốc nổ, cung tên, giáo mác, nghĩa quân còn có nhiều vũ khí tưởng chừng như vô hại nhưng gây sát thương cao như quân cờ tướng, đàn, bút, dải lụa, quạt nan sắt, trâm cài đầu… được sử dụng như những ám khí. Trong dân gian vẫn còn truyền miệng nhiều câu chuyện về đôi đũa cả nấu vạc cơm lớn của bà ba Cẩn vợ Đề Thám như một đôi song kiếm dũng mãnh biến ảo khôn lường khi xung trận. Và trong số những vũ khí đặc dị ấy, võ sáo được xem như một di sản văn hoá độc đáo của vùng đất Yên Thế mà ông Trịnh Như Quân đã có duyên may lĩnh hội được.
Già bản rừng Phe
Di ảnh của cụ Triệu Quốc Uý. Ảnh chụp lại tư liệu
Trong hành trình tìm kiếm của mình, ông Trịnh Như Quân đã may mắn gặp được trưởng bản rừng Phe (xã Tam Thế, Yên Thế), người còn giữ được bài võ sáo nổi tiếng thời cụ Đề Thám dấy binh khởi nghĩa là cụ Triệu Quốc Uý. Cụ Uý được kế thừa bài võ sáo từ người cậu ruột vốn là nghĩa quân Yên Thế.
Rừng Phe lúc bấy giờ là một nơi rừng thiêng, nước độc hiểm yếu, bọn thổ phỉ mặc sức tung hoành khắp nơi khiến ai cũng lắc đầu rùng mình ghê sợ nên ngay từ nhỏ cụ Uý đã được người cậu vốn rất quý mến mình dạy võ để phòng thân. Vốn thấy đứa cháu thông minh, lanh lợi lại gan dạ và chăm chỉ luyện tập nên người nghĩa quân năm xưa đã mang hết sở học của mình ra dạy cháu bắn súng, cưỡi ngựa, đặc biệt là các thế võ. Hầu hết những bài võ nổi tiếng cụ Triệu Quốc Uý đều được cậu mình truyền lại, trong đó có bài võ sáo độc đáo của nghĩa quân Yên Thế.
Chính cậu của cụ Uý đã giải thích trong khởi nghĩa Yên Thế, nghĩa quân Đề Thám đã dùng cây sáo sắt vừa làm ám hiệu cho nhau qua từng loại tiết tấu âm thanh, vừa là vũ khí để khi cần có thể biến thành côn, kiếm đánh trả. Không biết bài võ sáo này xuất hiện từ bao giờ nhưng qua một số sách vở còn ghi chép lại ở bảo tàng Bắc Giang thì môn võ sáo đích thực là do những người dân vùng rừng núi Yên Thế sáng tạo ra. Tuy nhiên ông tổ của môn võ này thì đến nay cũng chưa rõ là ai. Võ sáo đã được người dân ở Yên Thế sử dụng từ rất lâu trước khi nghĩa quân của Hoàng Hoa Thám biết dùng nó như một vũ khí lợi hại.
Sau một thời gian chăm chỉ tập luyện, cụ được người dân ở đây vị nể và tôn sùng như một huyền thoại bởi tài bắn súng, đánh võ và có một sức khoẻ phi thường. Tương truyền cụ có thể bắn bách phát, bách trúng cho dù một con chim đỗ ở tít trên ngọn cây cao hay quả treo trên cành cách chỗ đứng rất xa. Nhờ uy danh cụ mà dân bản rừng Phe được sống yên ổn vì bọn phỉ không dám động đến.
Cụ từng tham gia hoạt động cách mạng và khi nghỉ hưu lại về sống ở bản rừng Phe, ngày ngày chăm chỉ luyện tập các thế võ, nhất là bài võ sáo. Khi đã già, cụ Uý luôn canh cánh trong lòng một nỗi buồn vì môn võ sáo không có người kế thừa, khi cụ mất đi sẽ tuyệt tích trong dân gian. Con cháu của cụ, hoặc là không quan tâm hoặc không có khả năng để lĩnh hội cái vi diệu của bài võ sáo độc đáo này. Và việc ông Trịnh Như Quân gặp được cụ Uý không chỉ ông mừng mà chính cụ Uý cũng vui vì cụ đã tìm được người để truyền đạt lại hết cái tinh thần của cây sáo sắt vốn được xưng tụng là “thiết địch thần phong” hay “ngọc tiêu diệu khúc”.
bài và ảnh Hà Dịu -SGTT
Thông báo Quan trọng
Collapse
No announcement yet.
"Bóng trăng phồn xương" - Độc đáo võ sáo
Collapse
X
-
"Bóng trăng phồn xương" - Độc đáo võ sáo
"Bóng trăng phồn xương" - Độc đáo võ sáo
Nói đến Yên Thế (Bắc Giang) người ta nghĩ ngay đến cuộc khởi nghĩa của nông dân chống thực dân Pháp xâm lược do Hoàng Hoa Thám và các tướng lĩnh áo vải của ông lãnh đạo. Vùng đất huyền thoại này còn lưu gữi bài võ sáo "Bóng trăng phồn xương" mà nghĩa quân năm xưa từng làm cho lính Pháp nhiều phen thất điên bát đảo.
Vùng đất huyền thoại
Già bản Triệu Quốc Uý đưa bàn tay nhăn nheo, chằng chịt những đường gân guốc trông tựa như những rễ cây rừng, chỉ cho tôi cánh rừng bạt ngàn trước mặt rồi nói : "Bản Rừng Phe, nằm lưng chừng trên dãy núi cao, rừng lại nâng cho núi càng cao hơn và bí hiểm hơn. Nhiều hơn ở đây, thuở ấy còn là cánh rừng nguyên sinh, hầu như chưa có vết chân người.
Các thung lũng mịt mùng cây cối uốn lượn liên tiếp theo các triền đồi nhấp nhô. Có đủ các loại gỗ quý, cây nào cây ấy đều cao to. Tán cây nọ chen cành cây kia che kín cả ánh mặt trời. Trong bóng tối âm u thâm nghiêm của rừng cả cây già, mặt đất ẩm ướt, nhùng nhình những tầng lá mục lưu cữu. Những làn sương và mây mù sinh ra từ đấy. Từng dải mây trắng lửng lơ làm cho cảnh núi rừng càng vắng lặng. Một tiếng chim kêu, một tiếng thú bất chợt vang lên càng làm cho khung cảnh thêm bí hiểm, ghê sợ..."
Khí hậu ở vùng Yên Thế cũng thật khắc nghiệt. Mùa nóng cây cối như lả đi, hơi nóng bốc hơi lên hầm hập. Rồi những trận mưa xối xả, mù mịt. Chớp rách trời. Sấm nổ ùng oàng.
Mùa đông, Yên Thế là chốn của gió, nơi đầu tiên đón những cơn gió bấc về xuôi.
Rét Thái Nguyên rét về Yên Thế / Gió qua rừng đèo Khế gió sang.... Trời thấp xuống. Gió vun vút, không ngơi, không nghỉ.
Trong thung lũng hẹp, trong tiếng gió rít gào, cây cối vật vã gầm thét, ngỡ như từng chiếc lá non cũng đang cóng lạnh thành từng mảng kim khí nhọn hoắt quay cuồng. Ông Uý ngừng kể, uống tiếp một ngụm rượu nữa, rồi nói tiếp: "Tôi đã lớn lên trong khí hậu khắc nghiệt của thiên nhiên, nơi vùng rừng núi này.
Cái khí hậu khắc nghiệt của vùng đất rừng Yên Thế cộng thêm sự biến động của xã hội, thời ấy, bọn thổ phỉ hoành hành khắp nơi ở mảnh đất này trong các khu rừng hoang rậm, ít người biết đến hoặc có ai nhắc tới người ta cũng lắc đầu, rùng mình ghê sợ... không ai dám bén mảng tới."
Chính vì thế sống ở đất này, để phòng thân, thuở nhỏ ông được người cậu ruột của mình là cụ Châu Đoàn (người nổi tiếng khắp các tỉnh Bắc Giang, Lạng Sơn, Cao Bằng,.. bởi tài võ thuật xuất chúng của ông), ông Châu Đoàn là người chuyên đi sưu tầm các bài võ nổi tiếng, mỗi khi nhắc đến tên ông thì không một ai ở các tỉnh trên đều không biết tiếng.
Ông Uý được người cậu ruột của mình rất quý mến, bởi sự thông minh, lòng gan dạ, sự ham học hỏi, và đặc biệt là chăm tập luyện. Ông được người cậu của mình dạy bắn súng, cưỡi ngựa, đặc biệt là dạy võ. Hầu hết những bài võ nổi tiếng ông đều được cụ Châu Đoàn truyền lại, trong đó có bài võ sáo độc đáo của nghĩa quân Yên Thế.
Sau một thời gian chăm chỉ tập luyện, và cũng chính ông được mọi người dân ở đây vị nể và tôn sùng như một huyền thoại bởi tài bắn súng, đánh võ và có một sức khỏe phi thường. Ông có thể đuổi theo một con nai, con hoẵng ở khắp núi rừng mà không biết mệt. Ông có thể bắn "bách phát bách trúng" cho dù một con chim đỗ ở tít trên ngọn cây cao, hay một quả táo treo lơ lửng trên cành cách chỗ ông đứng rất xa.
Danh tiếng ông nổi lên như cồn, bọn phỉ thấy thế cũng từ mặt ông ra, từ mặt cái bản Rừng Phe của ông ra bởi chúng biết nếu có động vào, thì ông sẽ không để bọn chúng yên. Vì thế, bản Rừng Phe của ông khá yên bình trong một thời gian dài loạn lạc. Và nơi đây cũng chính là cái nôi nuôi dưỡng các cán bộ cách mạng.
Lớn lên theo tiếng gọi cách mạng, ông xung phong vào bộ đội, trong thời gian này, ông có dịp sống cùng Bác Hồ tại Tuyên Quang. Về sau ông làm trợ lý giúp việc cho ông Nguyễn Đức Tâm (nguyên Trưởng ban tổ chức Trung ương), về hưu ông Úy sống tại bản Rừng Phe, mảnh đất nơi ông đã sinh ra và lớn lên với đầy ắp kỷ niệm.
"Bóng trăng phồn xương"
Ngược dòng lịch sử, tìm hiểu xuất xứ về môn võ sáo Rừng Phe - Yên Thế được biết, một thời gian dài Yên Thế là mục tiêu phong tỏa, bao vây của Thực dân Pháp. Ngày ấy, Yên Thế là một vùng đất âm u, bí hiểm, núi non và rừng đại ngàn trùng điệp. Dựa vào địa hình này, nghĩa quân Hoàng Hoa Thám đã đánh quân địch nhiều phen phải "thất điên bát đảo".
Ngoài việc sử dụng tốt các loại súng trường, súng kíp, các loại cung nỏ, mã tấu, nhằm tiêu hao sinh lực địch thì võ thuật của nghĩa quân Đề Thám cũng là nỗi khiếp sợ của kẻ thù. Không chỉ với 18 môn (thập bát ban) võ thuật thông dụng, nghĩa quân Yên Thế còn có nhiều bài võ và binh khí đặc dị được sử dụng thành thạo như: Quạt sắt (thiết phiến) Thoa (châm cài đầu), Nhiễu Tiêu (roi mềm đi ngựa)... đặc biệt là có sáo sắt (thiên địch) vừa là một vũ khí lợi hại, vừa có tính lãng tử nhân văn và được lưu truyền như một di sản văn hóa độc đáo của vùng đất Bắc Giang.
Khi hỏi chuyện về bài võ sáo độc đáo "Bóng trăng phồn xương" của nghĩa quân Yên Thế, ông Triệu Quốc Uý chậm rãi kể: bài võ sáo này, tôi được lĩnh hội của người cậu tôi là cụ Châu Đoàn (người đã tham gia trong nghĩa quân khởi nghĩa Yên Thế năm xưa...) Thực tế, cây sáo sắt này có chiều dài tương đương bằng một cây mã tấu (đao) dài 65 - 70cm, nặng khoảng trên 400g, có thể đánh, đỡ, đâm ... từ sát thương cho đến hạ thủ địch. Khi hội hè hoặc thư giãn có thể chơi được như một bản nhạc nhằm tâm tình, tự sự, ca ngợi thiên nhiên, tình yêu cuộc sống.
Qua tiếng sáo người nghe có thể biết được khí lực, nội lực của người thổi, từ đó đánh giá được trình độ của người chơi sáo đạt được ở trình độ nào. Giai điệu của võ sáo ảnh hưởng sâu đậm dân ca quan họ Kinh Bắc và hát then ở miền Cao - Lạng. Đầu sáo bao giờ cũng buộc một tua vải màu trang trí hoa mĩ, thể hiện ở phần đuôi đao, đuôi kiếm (nếu không sẽ nhầm là một đoạn côn). Kiếm đao mang cốt cách oai phong, hào khí. Cây sáo được sử dụng như những chiêu thức của đao kiếm và loáng thoáng hình bóng của đoản côn.
Võ sáo là một trong những tinh hoa của môn vũ khí đặc dị trung bình. Khi xung trận, khí thế mạnh mẽ cương, nhu nhịp nhàng, gấp rút như thiết kị, chậm rãi như dòng nước uốn khúc lững lờ trôi, khi thu sáo vào như một bông hoa, khi đâm ra chắc như đinh đóng, có giá trị thực dụng chế ngự đối phương. Nếu khổ luyện thuần thục thì người sử dụng võ sáo có một sức khỏe dẻo dai đi đôi với thân thể cường tráng.
Trầm ngâm một lúc, ông Triệu Quốc Uý uống thêm một ngụm rượu rồi tiếp tục giảng giải: Bài võ sáo "ánh trăng phồn xương" gồm 6 thế tấn, 13 thuật đặc dị kiếm pháp và 51 chiêu thức cụ thể. Nói rồi cụ đứng dậy cầm lấy cây sáo, làm lễ bái tổ (đặc trưng của võ cổ truyền) sau đó trình bày các thế: lập tấn; tả hữu tha luân; tam hoa cái đỉnh; xà hành nhập trận; long hổ hội; xà hoành thoái bộ... Nhìn ông Triệu Quốc Uý lúc này không chỉ là một ông cụ quắc thước, vạm vỡ nữa, từng cử động của ông trở nên hết sức linh hoạt. Bước chân từ lập tấn, trở sang duy bộ rồi trở về hạc tấn... Khi chuyển sang thế phản công, cây sáo từ tay trái chuyển sang tay phải và được sử dụng như một cây kiếm với những động tác: Đề, Cách, Kích, Si, Điểu, Băng, ... Cây sáo lúc đưa từ dưới lên, lúc gạt sang một bên, lúc phóng nhanh tới, răng kiếm ngang qua bằng vai như một cánh chim...
Bài võ sáo đã được cụ thể hiện xong, mà tôi vẫn còn đứng ngây người thán phục, chưa biết hỏi câu hỏi gì thì ông Uý lên tiếng: các động tác tả cảnh trong bài võ chỉ mang tính ước lệ, tâm hồn người võ sĩ phải hòa quyện với trăng sao, nhưng bộ tiến (chân vẫn giữ nguyên, các thế tấn võ thuật). Đó là nét độc đáo, là nghệ thuật đặc sắc của "Bóng trăng phồn xương". Người biểu diễn, người xem đều thưởng thức võ thuật hòa quyện với âm nhạc, trăng sao và sông suối. Những chiêu thức trong "Bóng trăng phồn xương" mang trạng thái của thiên nhiên, hoa lá, cây cỏ cho đến sức mạnh của mãnh thú. Bài võ không chỉ là kỹ thuật chiến đấu mà nó còn có cả công dụng dưỡng sinh chữa bệnh, điều hòa khí huyết, thần sắc... Bắc Giang được coi như cái nôi võ thuật của vùng Đông Bắc.
Ước muốn đã thành hiện thực
Khi tôi hỏi, ông đã truyền lại bài võ này cho ai chưa ? Ông Uý mừng ra mặt báo một tin vui, Sở thể dục thể thao Bắc Giang khi biết tin còn bài võ đã cử ngay người đến nhà để xin ông truyền lại bài võ sáo "Bóng trăng phồn xương" cho thế hệ sau. Chỉ sau một thời gian ngắn, với sự miệt mài kiên trì tập luyện và sự hướng dẫn đến quên mệt mỏi của ông Uý, bài võ sáo đã được anh Trịnh Như Quân (cán bộ chuyên trách về võ thuật của Sở) đến tận nhà ông Uý để "Luận thiện".
Trò chuyện với chúng tôi, anh Quân cho biết: bài võ sáo "Bóng trăng phồn xương" này có một phong cách độc đáo bởi vũ khí chủ lực truyền thống là một cây sáo sắt thuộc loại đặc dị tầm trung bình. Cây sáo sắt ở đây mang tính nhân văn lãng tử khi hội hè, thư giãn có thể trình tấu những bản nhạc nhằm tâm tình tự sự, ca ngợi tình yêu thiên nhiên, cuộc sống. Qua đó, âm thanh toát lên những thông điệp về bản thân và tâm hồn người nghệ sĩ với những mối liên hệ quanh mình tuỳ theo sự cảm nhận, tình cảm, tư tưởng của mỗi con người.
"Bóng trăng phồn xương" có nhiều những thế, những chiêu khó, khiến người học phải có một kiến thức nhất định, một tâm hồn trong sáng, nhiều thế như: Tả hữu xa luân, Tam hoa cái đỉnh, Xà hình nhập trận, Long hổ hội, Xà hình thoái bộ, Bạch xà quấn thân, Đổng tước song phi…khi tập những động tác này phải hết sức linh hoạt, tâm hồn phải sáng như trăng rằm, thân hình mềm dẻo như tơ lụa, biến hoá khôn lường. Lúc chuyển sang thế tấn công phải mạnh mẽ như vũ bão, ào ạt như thác nước chảy, ra đòn mạnh như ánh trăng loang trên mặt nước. Đặc biệt có thế khó nhất trong bài đó là thế "Lão hầu du sơn" (Khỉ già chơi núi) thế này khó phải tập đi tập lại đến cả nghìn lần mà rất khó đạt được đến trình độ "Di ảnh kỳ hình" chiêu này theo ông Uý, người học phải dày công ít nhất phải mất 3 năm.
Bài võ sáo "Bóng trăng Phồn Xương" gồm 6 thế tấn, 13 thuật đặc dị kiếm pháp và 51 chiêu thức cụ thể. Mỗi chiêu là một miếng đánh hiểm hóc, khiến đối thủ chưa kịp nhận rõ đã bị hạ gục. Vì vậy, có ngày anh Quân cùng ông Uý tập luyện đến quên ăn quên ngủ mà cũng chỉ được một chiêu trong bài. Khổ luyện với ước muốn nhanh chóng tiếp thu được bài võ sáo quý giá này, cuối cùng, do kiên trì bền bỉ anh Quân đã lĩnh hội được bài võ sáo "Bóng trăng phồn xương" do ông Uý truyền lại.
Theo VTC news
TANGAN JUDI | Situs Slot Online Terbaik Yang Asia Miliki
Leave a comment: