• Nếu đây là lần đầu tiên bạn ghé thăm Trang nhà Chút lưu lại, xin bạn vui lòng hãy xem mục Những câu hỏi thường gặp - FAQ để tự tìm hiểu thêm. Nếu bạn muốn tham gia gởi bài viết cho Trang nhà, xin vui lòng Ghi danh làm Thành viên (miễn phí). Trong trường hợp nếu bạn đã là Thành viên và quên mật khẩu, hãy nhấn vào phía trên lấy mật khẩu để thiết lập lại. Để bắt đầu xem, chọn diễn đàn mà bạn muốn ghé thăm ở bên dưới.

Thông báo Quan trọng

Collapse
No announcement yet.

Chủ Đề Xuân Canh Dần

Collapse
X
 
  • Filter
  • Time
  • Show
Clear All
new posts

  • Chủ Đề Xuân Canh Dần

    CLL: Năm con Trâu đã sắp sửa ra đi và chúng ta đang chuẩn bị đón chào năm Con Cọp sắp đến. Với một đôi điều cảm xúc trong năm mới, HV xin mời các bạn cùng tham gia một đôi bài viết nói về mùa Xuân như là một "Chủ Đề Xuân Canh Dần" nhỏ của CLL.
    Chủ đề bao gồm tất cả có thể là những bài viết, thơ, văn, nhạc ...... về mùa Xuân.
    Thành thật cảm ơn và rất mong sự đóng góp của tất cả Quý Tác giả, Anh Chị Em và các bạn.

    Năm Dần nói chuyện cọp trong nghệ thuật
    Hiếu Lê

    Click image for larger version

Name:	dsc00288.jpg
Views:	18
Size:	14.5 KB
ID:	264625Năm Canh Dần sắp đến, hình tượng của Chúa Sơn Lâm lại lừng lững xuất hiện cách đặc biệt trong hơn 360 ngày sắp tới. Hình tượng oai phong này cũng trở thành nguồn cảm hứng để Hoạ sĩ Hiếu Lê viết nên bài cảm tác dưới đây:

    Chỉ còn ít ngày nữa chúng ta sẽ bước qua một năm âm lịch mới, năm Canh Dần, năm con Cọp! Theo luật tuần hoàn của Tạo hóa, Xuân, Hạ, Thu, Đông xoay vần: Trâu đi thì Cọp đến.

    Xưa nay cọp vẫn là một ác thú. Nó hung hãn nhất trong 12 con giáp. Nói về sự khôn ngoan, cọp không thể sánh với khỉ và chuột. Nói về sự kiên trì, sao cọp có thể sánh với trâu, nhanh không bằng ngựa, uy vũ sao sánh bằng Rồng, luồn lách và hiển độc không thể bằng rắn. Thế nhưng, trong 12 con thú, có lẽ cọp hội đủ các đặc chất: dũng mãnh, can trường, hiên ngang, dám tấn công cả những con thú to khỏe hơn nó. Nhờ những đặc chất ấy mà cọp là một trong những loài trở thành biểu tượng của sự hùng cường và sức mạnh vô song, vì thế nó được con người thần thánh hóa, không riêng ở nước ta mà cả nhiều nước khác cũng đưa cọp dự phần vào đời sống xã hội, văn hóa, và nghệ thuật.

    I_ TRONG VĂN CHƯƠNG
    Rất nhiều tác phẩm văn chương, những truyện ngụ ngôn, nói về cọp, như truyện ngụ ngôn Cọp và Trí khôn Con người, Ngũ Hổ Tướng trong Tam Quốc Chí của La Quán Trung, tiểu thuyết Cọp Trắng, và đặc biệt trong bài thơ Nhớ Rừng của Thế Lữ:

    Nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già,
    Với tiếng gió gào ngàn, với giọng buồn hét núi,
    Với khi thét khúc trường ca dữ dội,
    Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng.
    Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng,
    Vờn bóng âm thầm, lá gai, cỏ sắc,
    Trong hang tối, mắt thần đã quắc,
    Là khiến cho mọi vật đều im hơi.
    Ta biết ta là chúa tể muôn loài,
    Giữa chốn thảo hoa không tên, không tuổi.
    Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối,
    Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan,
    Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn,
    Ta lặng ngắm giang sơn đổi mới…

    Ngôn ngữ trong thơ được dùng không cầu kỳ, không hoa mỹ, mà dung dị và táo tợn, ý tưởng chuyển biến nhịp nhàng nhưng dứt khoát, kết hợp nhuần nhị giữa Nỗi Nhớ và Rừng, tạo nên một con cọp độc đáo trong thi ca Việt Nam.

    II_ TRONG TRANH
    Hình tượng cọp có mặt trên các phù điêu bằng gỗ, đá, đồng, ở các đền đài, lăng miếu, trong dòng tranh Đông Hồ của phố Hàng Trống từ xa xưa, nhất là trong các đồ thủ công mỹ nghệ. Tranh vẽ Cọp rất phong phú, đa dạng, không chỉ giới hạn ở nơi thờ tự, trong cung đình, mà còn phổ biến ngoài dân gian.

    Trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam, cọp là con vật được tôn thờ từ lâu, tên của nó được thần hóa và được gọi là ‘Ngài, ‘Ông Ba Mươi,’ ‘Hổ.’ Nó được tạo dựng thành biểu tượng của sức mạnh của niềm tin. Tranh vẽ được biết đến nhiều nhất, qua nhiều thế hệ, là bức Ngũ Hổ của phố Hàng Trống, được vẽ trên giấy khổ 55 cm x 75 cm. Nó vẽ tả năm con cọp được bố cục cân đối trên không gian được định sẵn, mỗi con một dáng: con đứng, con ngồi, con lướt gió… Đây là loại tranh bản (khắc gỗ rồi in trên giấy). Nhưng cách thức của dòng tranh Hàng Trống là chỉ in bảng nét rồi dùng cọ lông để tô màu. Trong quá trình tô màu, các nghệ nhân vờn màu, tạo độ đậm nhạt, chuyển sắc sáng tối, âm dương, nên cọp trong tranh không còn là mảng bẹt như cách thể hiện của dòng tranh đương thời. Với cách thức sáng tạo độc đáo ấy, các nghệ nhân Hàng Trống không chỉ tạo nét đặc thù của dòng tranh riêng mà còn làm bật lên sức sống nội tại của tác phẩm. Người xem tranh rất dễ nhận ra điều này qua hình ảnh những con cọp: những khối thân chắc khỏe, dáng ngồi, thế đứng đường bệ, oai phong, đặc biệt là những cái đuôi như đang ve vẩy hoặc uốn cong lên trước khi đập xuống đất để phóng mình lên. Độc đáo nhất phải kể đến đôi mắt cọp: hùng hực, ánh lên sức mạnh của loài chúa sơn lâm.

    Màu sắc trong bức Ngũ Hổ là một thế giới hòa sắc, lộng lẫy, uy linh, nhưng vẫn hòa hợp với năm màu: xanh, đỏ, trắng, vàng, đen trên năm con cọp. Lối dùng màu này của các nghệ nhân thể hiện rõ một hàm ý và mang tính triết lý sâu xa của quan niệm dân gian truyền thống:

    - Hoàng hổ: Cọp vàng, tượng trưng hành Thổ, ứng với trung ương chính điện.
    - Thanh hổ: Cọp xanh, tượng trưng hành Mộc, ứng với phương Đông.
    - Bạch hổ: Cọp trắng, tượng trưng hành Kim, ứng với phương Tây.
    - Xích hổ: Cọp đỏ, tượng trưng hành Hỏa, ứng với phương Nam.
    - Hắc hổ: Cọp đen, tượng trưng hành Thủy, ứng với phương Bắc.

    Tranh ngũ hổ

    Hoàng hổ

    Thanh hổ

    Bạch hổ

    Xích hổ

    Hắc hổ


    Và như thế, 5 con cọp được vẽ bằng năm màu khác nhau tượng trưng ngũ hành: kim, mộc, thủy, hỏa, thổ. Quan niệm tạo hình, cách phối màu, mang tính ước lệ trong nghệ thuật dân gian xưa là phổ biến, mà nếu gạt qua cái vỏ ngoài của sự mê tín, dị đoan, thì đây là bức tranh có giá trị nghệ thuật cao.

    III_ TRONG TƯỢNG VÀ PHÙ ĐIÊU
    Tượng và phù điêu cọp bằng đá đã có từ thời nhà Trần, Lê, nổi tiếng ở Link" align="right" border="0" alt="" style="padding:7px;" />các chùa, lăng tẩm, như Chùa Đại Bi (Hoài Đức, Hà Tây), và đặc biệt là Cọp Đá ở Lăng Trần Thủ Độ, Vũ Thư, Thái Bình. Đây là một tác phẩm điều khắc đẹp trong nền nghệ thuật cổ Việt Nam: Con cọp ở tư thế nằm, dáng vẻ ung dung, hai chân trước sải dài, hai chân sau thu gọn trong bụng, đầu ngẩng cao, đôi mắt lim dim, hai tai dỏng lên như đón nghe một tiếng động nào đó vọng về từ chốn xa xăm.

    Khối đá không to như con cọp thực ngoài đời, nhưng nghệ thuật cổ đã khắc dựng một hình tượng có sức lay động tình cảm người xem. Đứng trước tác phẩm, trong khung cảnh của công trình tưởng niệm người có công tạo dựng nhà Trần, giữ gìn sơn hà, xã tắc trên mảnh đất quê hương Việt Nam, ta thấy bùng lên chất sử thi bi hùng. Người tạc tượng đã thổi hồn vào đá, ban cho nó một sức sống tinh thần của một thời liệt oanh, của một con người trí dũng, toàn tâm, toàn ý, vì dân, vì nước.

    Cọp trong điêu khắc cổ Việt Nam thường là ‘cọp vồ mồi,’ ‘cọp ngắm trăng, ‘cọp và rồng,’ để diễn tả sức mạnh, ý chí, và khai thác chất thơ trong cái oai của chúa sơn lâm. Người ta không dùng ‘cương’ để biểu hiện sức mạnh, mà dùng ‘nhu’ để biểu hiện ‘chất hùng,’ ‘chất thép.’

    IV_ VÀ TRONG NGHỆ THUẬT HIỆN ĐẠI
    Với sự tiến bộ như vũ bão của khoa học kỹ thuật, công nghệ thông tin, con người văn minh hơn, giàu có hơn, hưởng thụ nhiều hơn, và với sự ra đời của trường phái hậu hiện đại, bản thân cọp hầu như tuyệt chủng, vì ô nhiễm môi trường, phá hủy rừng để lấy gỗ. Cọp chỉ còn thấy ở các bảo tàng viện, phim ảnh, sách vở, hoặc trong những bộ sưu tầm của các đại gia giàu có, dưới dạng da hổ, cao hổ cốt, v.v… Và có lẽ đó chính là hình ảnh của nghệ thuật hậu hiện đại, được triễn lãm, trưng bày một cách khéo léo ở các… cửa hàng!

    Nguồn: tgpsaigon.net
    Attached Files
    Đã chỉnh sửa bởi hoangvu; 14-12-2022, 11:16 PM.
    Sống trên đời

    Similar Threads
  • #16

    Nhà nghèo nên cứ nghĩ đến Tết, tôi lại thấy "Run"

    Nhà nghèo nên cứ nghĩ đến Tết, tôi lại thấy "Run"
    Ngân

    Những ngày còn trẻ con sao mà thích tết thế, suốt ngày nhắc nhỏm, đếm ngược từng ngày để chờ đến Tết. Trong khi đó thì bố mẹ cứ cuống cà kê lên, chẳng lộ một chút vui vẻ hào hứng. Tôi luôn tự hỏi tại sao chả thấy người lớn nào thích Tết? Hay tại người lớn không được lì xì nên không vui. Lớn lên rồi, có gia đình rồi mới hiểu có cả trăm nghìn lý do để sợ Tết.

    Làm quanh năm, tiết kiệm được bao nhiêu mà dịp Tết cũng tiêu vèo một cái là hết. Thật là kiếm củi ba năm thiêu một giờ. 4 năm nay, Tết nào cũng tiêu hết cả mười mấy triệu dù đã tiết kiệm lắm. Chẳng còn khái niệm sắm đồ diện Tết cho bản thân, cho chồng. Chỉ có con là được bộ mới. Đồ ăn đồ uống cũng chẳng khác ngày thường bao nhiêu, mua thêm hoa quả bánh kẹo bày biện bét nhè cũng tốn chưa đến 1 triệu mà sao tiền đi đâu hết? Nào là tiền mua quà biếu sếp, tiền lì xì bọn trẻ con, nhưng nặng nề nhất có lẽ vẫn là tiền biếu…

    Năm đầu mới cưới, vừa muốn lấy lòng, thể hiện với đằng nhà chồng, lại tiện tiền mừng đám cưới khá nhiều, tôi đem biếu bố mẹ chồng một khoản cũng khá. Có thể ở thành phố này thì chẳng đáng bao nhiêu, nhưng ở quê khoản đó đủ cho các cụ tiêu một cái tết dư dả cho cả đại gia đình rồi. Chồng tôi rất vui vì vợ thoáng với bố mẹ chồng. Còn với bố mẹ tôi, chồng chỉ mua chai rượu với hộp bánh. Ông bà cũng chẳng nói gì, dẫu sao nhà tôi cũng không thiếu. Bên đằng nhà tôi kinh tế khá giả nên trong cách cư xử bao giờ tôi cũng trọng nội hơn một tý.

    Tết năm thứ hai, để xoay cho được khoản tiền bằng khoản biếu Tết bố mẹ chồng năm trước cũng khiến vợ chồng tôi chóng mặt. Bầu bí, sinh đẻ, đã không đi làm được (ở đây là làm thêm, công việc của tôi làm ngoài rất nhiều chứ lương chỉ 3 cọc 3 đồng), lại trăm nghìn thứ phải chi tiêu, túng bấn khủng khiếp. Tôi ngỏ ý hỏi chồng Tết này biếu bố mẹ bao nhiêu? Chồng bảo “thôi mình không có biếu bằng năm ngoái thôi em ạ, chứ sao biếu ít hơn được”. Những tưởng chồng bảo năm nay con nhỏ thì ít đi một tý cũng không sao, ngờ đâu…

    Tết đó bố mẹ chồng tôi không được thoải mái lắm. Rồi cả tết cứ kêu ca là hi vọng năm sau hơn năm trước chứ năm vừa rồi làm ăn chán quá, chả có tiền mà tiêu, mà sắm sửa… Tôi nghe mọi người nói lại mà buồn lòng. Tết năm ngoái, tôi còn chưa kịp biếu tiền, còn 1 tháng nữa đến Tết mà mẹ chồng tôi đã gọi điện lên gióng giả nói chuyện Tết, hỏi nhà tôi đã sắm sửa gì chưa? Sao năm nay giá cả tăng vọt, đồng tiền mất giá thế? Mọi khi 2,3 triệu cũng lo được cái tết. Giờ phải bằng 3 lần. Thôi bà lại nhắc khéo con dâu đây.

    Lại hỏi chồng, chồng bảo giá cả tăng phải biếu các cụ tăng lên chứ. Thế là từ 6 triệu tăng thành 7 triệu. Đầu tiên chồng đòi tăng 8 triệu. Tôi bảo thế thì con anh không có quần áo mới đâu, cũng nghỉ luôn cả mai đào hoa hoét đi vì nhà chẳng còn tý tiền nào. Mãi rồi chồng mới chịu, luôn miệng bảo giá cả tăng vọt này nọ. Thế mà đi tết bố mẹ vợ đã thành lệ, năm nào cũng 1 chai rượu, 1 hộp bánh, gói gọn dưới 2 triêu, chẳng hề bảo”hay năm nay giá cả thế này mình biếu thêm bố mẹ một ít để bố mẹ tiêu?”. Lúc nào anh ấy cũng chỉ chăm chăm cho nhà mình mà mặc kệ nhà vợ.

    Ôi tết năm nay nữa, mẹ chồng cũng vừa gọi lên than chuyện giá vàng…

    Bài gởi nhận từ email
    Sống trên đời

    Comment

    • #17

      Buồn vui phong tục lì xì

      Buồn vui phong tục lì xì

      Link" align="left" border="0" alt="" style="padding:7px;" />Tết đến, Xuân về ai cũng muốn mình và người thân được vui vẻ, hạnh phúc. Mọi việc làm, mọi lời nói đều hướng tới những điều tốt đẹp trong năm mới. Tục mừng tuổi (lì xì) cũng xuất phát từ điều tốt đẹp đó. Tuy nhiên, ngày nay, tập tục tốt đẹp của dân tộc đang ngày càng bị thương mại hoá và trở thành gánh nặng cho nhiều người mỗi khi Tết đến.

      Phong tục đẹp của dân tộc
      Từ “lì xì” có nghĩa bắt đầu từ việc tặng quà. Tiếng Quảng Đông “lì xì” nghĩa là “lợi thị” có nghĩa là điều tốt lành, có lợi lộc, có vận may tốt nhằm chỉ một chút quà của vua (thường là tiền phong bao) cho thần dân khi họ mang vật dân tiến vua nhân dịp lễ hoặc Tết. Nói nôm na, đây có thể hiểu là vệc “lại quả”. Tục mừng tuổi đầu năm xuất phát từ Trung Hoa bắt nguồn theo việc này. Người xưa gọi tiền mừng tuổi là “áp tuế tiền”, đó là những đồng tiền được xâu lại, cột bằng sợi chỉ đỏ theo hình con rồng hoặc thanh kiếm để ở chân giường hoặc cách gối với mục đích chống ma quái, bảo vệ giấc ngủ yên lành cho con trẻ. Về sau, những đồng tiền được gói trong giấy màu đỏ và trở thành phong tục không thể thiếu ngày đầu năm với ý nghĩa cầu mong sức khoẻ, niềm vui, may mắn cho tất cả mọi người.

      Tục lì xì đầu năm là phong tục đẹp của nhiều nước châu Á như Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản, Hàn Quốc… Không có tài liệu nào nói chính xác phong tục này du nhập vào nước ta từ khi nào. Có ý kiến cho rằng, tục lì xì theo những người Minh Hương tới Việt Nam trong những năm cuối thế kỷ XVII, đầu thế kỷ XVIII nhưng cũng có ý kiến cho rằng phong tục này xuất hiện ở nước ta từ thời Bắc thuộc.

      Theo đúng phong tục, những người ngang tuổi không lì xì cho nhau mà chỉ có người lớn tuổi, người bề trên lì xì cho người dưới. Tết đến, đối tượng được lì xì nhiều nhất là trẻ em. Sáng mùng 1 là thời điểm thích hợp nhất để lì xì. Tất cả con cháu trong gia đình tụ hợp lại để chúc tho ông bà, cha mẹ. Ông bà, cha mẹ cũng chuẩn bị ít tiền để mừng tuổi cho con cháu chăm ngoan, học giỏi. Tiền lì xì thường được cho vào những phong bao màu đỏ, tượng trưng cho sự may mắn. Sau khi nhận những lời chúc của cháu con thì ông bà, cha mẹ phát phong bao lì xì cho con cháu ngỏ ý chúc con cháu làm ăn phát đạt, tiền bạc sinh sôi, nảy nở. Vì thế, tiền lì xì thương là những món tiền nhỏ nhưng gồm cả tiền lẻ và tiền chẵn.

      Lì xì, mừng tuổi đầu năm là để lấy may. Người mừng tuổi chia sẻ lợi lộc, cũng là mong ước sẽ có nhiều lộc hơn trong năm mới, người được mừng tuổi cũng sẽ gặp nhiều may mắn, làm ăn phát đạt, mạnh khoẻ… Cùng với việc lì xì, người ta chúc nhau những điều tốt đẹp, những điều may mắn tạo nên một không khí vui tươi, phấn khởi. Mừng tuổi, lì xì đã trở thành một phong tục tốt đẹp của dân tộc.

      Mất dần nét đẹp
      Tuy nhiên, không phải phong tục đó đã được giữ gìn đúng nghĩa. Ngày nay, cùng với sự phát triển của xã hội, “phú quý sinh lễ nghĩa”, tục lì xì bị “thương mại hoá” thành hình thức hối lộ được nguỵ trang.

      Ngày Tết trở thành dịp để quà cáp, biếu xén, nhân viên lo quà cho sếp, sếp lo quà cho sếp cao hơn, sếp cao hơn lo quà cho sếp cao hơn nữa… Ngày Tết bỗng trở thành mối lo quà cáp của nhiều người.

      Tục lì xì đang dần bị thương mại hoá và dần trở thành gánh nặng của nhiều người.

      Những đồng tiền mừng tuổi bị “thương mại hoá” không còn mang tính tượng trưng nữa mà là những đồng tiền có giá trị thực, thậm chí là giá trị rất cao tuỳ theo công việc mà cấp dưới muốn nhờ cấp trên, muốn cấp trên lưu ý. Muốn có việc làm, muốn được thăng quan tiến chức, muốn mua nhà giá rẻ, muốn được thông qua dự án… Bên cạnh chai rượu, hộp bánh, bó hoa thế nào cũng có những chiếc phong bì xanh xanh đỏ đỏ. Trong cái vỏ xanh đỏ ấy thể nào cũng là vài trăm, vài triệu VNĐ thậm chí là vài trăm, vài ngàn USD… tuỳ theo mức độ công việc cần nhờ vả. Ngày Tết, cùng với rượu ngoại, cây đào, cây mai có giá hàng chục triệu trở lên là phong bao lì xì. Cái phong bì đó được trao cho con sếp nhưng thực chất là trao cho sếp. Người nhận quà sẽ ngầm hiểu ý đồ mà người tặng quà gửi gắm. Thực chất, đấy là một hình thức hối lộ mà không ai có cớ bắt tội.


      Tục lì xì ngày nay còn lắm chuyện đáng để nói. Ngày Tết, chính tục lì xì đã khiến nhiều người ngại đến nhà nhau chúc Tết. Lý do là không thể lo nổi tiền lì xì cho quá nhiều trẻ con và vì số tiền lì xì bình thường bây giờ cũng không nhỏ. Ở thành thị một phong bao lì xì xã giao bình thường ít nhất cũng phải 50.000đồng trở lên. Nhiều gia đình, chỉ đi chúc Tết bạn bè, làng xóm mà 3 ngày Tết cũng mất ít nhất mấy trăm ngàn. Với những người nông dân, người công nhân nghèo thì đó quả là gánh nặng với họ, khiến nhiều gia đình không dám đi chúc Tết, vì nếu đi, gặp trẻ con nhà bạn bè mà không lì xì thì cũng ngại, có lì xì ít cũng ngại… Quả thật, câu phú quý sinh lễ nghĩa đang chi phối xã hội chúng ta quá nhiều và làm mất dần nét đẹp của tục lì xì nguyên gốc của cha ông.

      La Phù
      Theo: Tổ quốc
      Sống trên đời

      Comment

      • #18



        KIÊNG CỮ ĐẦU NĂM

        Tết đến nhà kia đủ thứ kiêng
        Sắm chi cũng sợ gánh ưu phiền
        Mua chuối: sợ làm ăn khó "ngóc"
        Mua lê: sợ mách lẻo xóm giềng
        Mua bom..sợ suốt năm toàn "nổ"

        Mua xoài: sợ thiếu thốn triền miên
        Mua cam: sợ âm thầm chịu đựng
        Mua táo: sợ rồi bón cả niên
        Ô hô ! đã vậy đừng sắm sửa
        Trụi lủi trụi lơ, khỏi tốn tiền.
        hahaha! chí lý chí lý!
        Vậy thì bàn cúng sẽ trống không
        Chỉ cần bình lọ với bó bông
        Dưa thì cũng sợ dây dưa mãi
        Bánh tét sẽ bị rách cả năm
        Xin xâm lại càng nên kiêng cữ
        Vì ngại năm mới sẽ bị xiêng
        Sầu riêng càng nên không dám rớ
        Măng cụt thì bị ngẹt ngõ ra
        Ngoài ra cần cữ trái thanh long
        Bởi vì vận số sẽ long đong
        Trái tắc lại càng nên kiêng đấy
        Bế tắc mọi điều xui cả năm
        Bánh ít không được ăn ngày Tết
        Cữ gì đây nữa hỡi người ơi!!!
        Xuân đến Xuân đi , ba ngày Tết
        Đỡ lo bánh trái, mừng ra phết
        Thôi thì ta chưng hoa với quả
        Cầu cho Đủ Xài khỏi lo xa!

        Xuân tếu

        Comment

        • #19

          Món Ngon Ba Miền Ngày Tết

          Món Ngon Ba Miền Ngày Tết

          Không chỉ để no lòng, món ăn ngày Tết còn là một nếp văn hóa thể hiện qua dấu ấn ẩm thực của đất nước ta. Tùy vào mỗi vùng miền khác nhau, thói quen ẩm thực cũng có nhiều điều không giống nhau. Tuy nhiên sự khác biệt ấy chỉ góp phần mang thêm phong vị đầy đa dạng của mỗi nơi, để khi có dịp thưởng thức qua, người ta lại có cảm giác như tìm thấy một vùng đất mới, của những tinh hoa trời đất và bàn tay chăm chỉ, sáng tạo của con người.

          MIỀN NAM

          Ở vùng Nam bộ nói chung, ngày Tết là dịp để mọi người được bận rộn. Sự bận rộn ấy thể hiện một mối quan hệ khăng khít trong làng xóm và gia tộc. Chỉ nói riêng việc ăn uống, Nam bộ đã là là một vùng đất mang nhiều phong vị rất riêng, trong nếp ẩm thực ngày xuân

          Bánh tét



          Từ những ngày trước Tết (khoảng ngày 27 đến 29 Tết), ở những vùng quê lẫn thành thị, nhà nào rộng rãi và điều kiện đều nấu một nồi bánh tét để làm quà biếu hàng xóm. Ở Nam bộ bánh tét được dùng khá phổ biến để thờ cúng tổ tiên, ông bà. Bánh tét có rất nhiều loại, bánh tét nhân mặn, nhân ngọt và có cả bánh tét chay. Nếu so với bánh tét chay không nhân, chỉ có đậu đen, dừa nạo trộn với nếp hay bánh tét ngọt có nhân làm bằng đậu xanh xào đường hoặc nhân chuối, thì đòn bánh tét mặn được chế biến công phu hơn nhiều. Người ta trải gạo nếp trên lá chuối, rải lớp đậu xanh, rồi mới đặt một miếng thịt mỡ to gần bằng ngón chân cái chạy dài suốt đòn bánh. Sau đó. cuộn tròn lại, buộc lạt thật chặt rồi đem nấu. Khi bóc ra, khoanh bánh tròn trịa nằm gọn trong đĩa, nhân đậu xanh chín vàng ươm, miếng thịt heo đỏ hồng tươm cả mỡ trông rất đẹp mắt. Món này thường được ăn kèm với kiệu chua hoặc củ cải ngâm nước mắm thì ngon tuyệt.

          Dưa giá

          Dưa giá là món ăn không thể thiếu trong những ngày Tết dùng để ăn chung với thịt kho hoặc cuốn bánh tráng. Đây là món ăn kèm giúp cho các món ăn chính trong ngày Tết thêm hương vị, mà cũng là thể hiện sự thông minh vô cùng trong việc kết hợp món ăn của ông cha ta. Vì ngày Tết món ăn nào cũng nhiều dầu mỡ, món dưa giá đơn sơ này sẽ có tác dụng làm "cân bằng". Vì thế, món dưa giá từ lâu đã trở thành món ăn quen thuộc trên bàn tiệc ngày Tết ở miền Nam.

          Dưa cải chua

          Là món ăn phổ biến trong mọi gia đình, nhất là vào dịp Tết. Món ăn này không cầu kỳ chỉ cần làm sạch cải (cắt rễ), phơi héo, trụng sơ và để ráo, sau đó xếp vào khạp hoặc hủ sành, rồi cho hỗn hợp nước muối, đường, phèn chua là được. Khi ăn, cho dưa cải ra đĩa, ăn kèm với thịt kho trứng và cơm nóng thì tuyệt vời. Cái vị chua chua giòn giòn như còn đọng lại trên đầu môi mỗi khi nhắc đến.

          Củ kiệu ngâm chua

          Bên cạnh hai món dưa giá và cải chua, củ kiệu là món không thể thiếu trong mọi gia đình, người ta có thể mua ở chợ, siêu thị, nhưng ngon nhất vẫn là do tự tay làm lấy. Trước hết, kiệu phải được ngâm nước tro khoảng 1 đêm cho bớt mùi hăng, sau đó làm sạch rễ và lá, phơi héo khoảng 4 giờ rồi ướp đường, cho vào keo thủy tinh sạch. Nếu muốn lọ kiệu thêm đẹp, bạn có thể trang trí thêm củ cải đỏ cắt hoa. Sau đó cho nước giấm nấu đường để nguội vào. 10 ngày sau là dùng được.




          MIỀN TRUNG

          Bếp lửa miền Trung thường náo nức chào Xuân với hương thơm của bánh tét, của dưa món, của nem chua, của tré, của thịt giầm bên cành mai vàng sắc nắng. Không những vậy, đến vùng đất kinh thành Huế, du khách còn có dịp thưởng thức món bánh tét Huế, mang màu xanh thẫm và dậy hương nếp cái nhờ nước cốt lá ngót ngâm gạo. Ngoài ra còn có món bò bắp giầm nước mắm xắt lát, ăn kèm với dưa món chua chua, ngọt ngọt.




          Giò heo hon miền trung

          Được làm từ thịt chân giò (giò heo), có màu vàng nghệ, hương thơm đặc trưng, là món rất được ưa dùng trong những ngày Tết ở miền Trung. Thịt giò cắt miếng vuông bằng đốt tay cái, ướp chung với nghệ tươi giã nát, nước mắm, muối, đường và nhất là không được thiếu chút ruốc Huế cho đậm đà. Rồi cứ việc đảo cho săn, cho chút nước xâm xấp, kho riu riu đến khi thịt mềm, cho thêm đậu phộng luộc chín, bóc vỏ. Ai thích ăn cay có thể gia thêm chút ớt bột, hay trái ớt giã nhuyễn, và cũng đừng quên cho vào một ít xả giã nhuyễn để nồi thịt thêm thơm nồng.

          Tôm chua Huế

          Tôm chua có ở nhiều nơi, nhưng ngon vào bậc nhất phải kể đến món tôm chua xứ Huế. Khi chế biến, người ta chuẩn bị đầy đủ các nguyên liệu như tôm, măng, tỏi xắt lát mỏng, củ riềng, ớt trái xắt lát dài. Đối với tôm, phải chọn loại tôm tươi, cắt râu, rửa sạch để ráo, ngâm với rượu cho đến khi hết mùi rượu, vớt ra, sau đó trộn đều tôm, măng, tỏi, ớt, riềng, nước mắm ngon hoặc muối, cho vào lọ thủy tinh hoặc lọ men, lấy vài thanh tre mỏng gài lại và đậy nắp, để nơi có nắng ấm độ 3 ngày rồi đưa vào nơi khô ráo và mát. Từ 5 đến 7 ngày, bạn đã có một lọ mắm tôm rực màu đỏ hồng, thơm phức. Gói trọn trong món tôm chua Huế là vị ngọt bùi của tôm, vị béo của thịt, vị cay, thơm của riềng, tỏi ớt, vị chua của khế, vị chát của vả, hương thơm của rau... tất cả sẽ mang đến cho bạn hương vị một ngày tết rất Huế, rất ngon.




          MIỀN BẮC

          Bên cạnh hai loại bánh truyền thống là bánh chưng và bánh dày. Món Tết miền Bắc rất đa dạng. Trong đó, phải kể đến các món như dưa hành, thịt đông, thịt bò kho quế...

          Dưa Hành


          Đây là món ăn khá phổ biến trong ngày tết, và đi vào kho tàng ca dao "Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ. Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh" mỗi khi nhắc về ngày Tết. Trước hết, bạn cần lựa loại hành già, củ chắc, cắt bỏ phần đuôi chỉ chừa lại phần rễ. Sau đó, ngâm hành vào trong nước tro có pha hàn the trong khoảng thời gian 2 ngày 2 đêm. Tiếp theo, vớt hành ra, cắt bỏ rễ, lột vỏ chỉ còn lại khoảng 5cm rồi xếp hành vào khạp, rải muối, bỏ một lớp mía chẻ mỏng, rồi đến lớp hành gài lại bằng những vỉ tre. Sau 2 tuần, bạn có thể lấy hành ra cho vào keo thủy tinh, rồi nấu nước dấm đường để nguội cho vào. Khoảng 3 ngày là ăn được.

          Thịt đông

          Thịt đông là món riêng có của mùa xuân Bắc bộ. Trong là không khí lạnh, thịt đông trở nên ngon hơn. Món này được làm từ thịt heo ba chỉ, đôi khi được sử dụng cả gà, cộng thêm một mảng bì lợn. Tất cả đều được ninh nhừ. Sau khi nấu xong, bạn lấy khỏi bếp và đặt nồi thịt ra ngoài sân, đậy kỹ cho nó ăn gió uống sương, thu lấy cái rét mướt từ trời cao và đất thấp vào mình để sớm hôm sau, nhà ta đã có nồi thịt đông kỳ diệu. Trên mặt của nồi thịt đông là lớp ván mỡ có màu trắng như tuyết pha sắc vàng mịn như mặt hồ không gợn sóng. Một miếng thịt đông kèm một củ dưa hành, thì thật đúng nghĩa Tết bắc.

          Thịt bò kho quế

          Thông thường, món này được chuẩn bị từ ngày 29 Tết để kịp cúng trưa 30 và mấy ngày Tết. Để làm món này, người ta chọn loại thịt bò nạm. Sau đó ướp với chút nước cốt tỏi, chút mắm muối rồi cho thịt ba chỉ cắt mỏng vào giữa, cuộn tròn lại, dùng lạt buộc chặt rồi chiên sơ trước khi cho vào nồi kho. Tiếp theo bạn có thể thả miếng thịt bò vào nồi nước sôi đã có sẵn nước tương, chút đường và một miếng quế nhỏ rang thơm, nấu cho đến khi thịt mềm thì vớt ra, để nguội. Gỡ bỏ những cọng lạt và cắt thịt thành khoanh, miếng thịt bò mềm mà chắc chứ không nát, lẫn vào mầu nâu của thịt bò là màu trắng của mỡ heo. Món này bạn có thể ăn kèm với bánh chưng hay cơm nếp vào ngày Tết thì tưởng như không có gì ngon bằng.
          Như Phong sưu tầm

          Đã chỉnh sửa bởi CONHAKO; 06-02-2010, 05:45 PM.
          ----------------------------

          Cái đẹp của sa mạc là một cái giếng nó ẩn dấu nơi đó.

          Comment

          • #20

            Mùa Xuân nói chuyện về thiền và vài nhà "thơ rượu"

            Chuyện phiếm hay chuyện thiền
            Mùa Xuân nói chuyện về thiền
            và vài nhà "thơ rượu"
            Trời đất sinh ra rượu với thơ,
            Không thơ không rượu sống như thừa(1).
            Bình rượu, túi thơ là những vật liệu luôn luôn mang bên mình của nhà thi sĩ. Rượu và thơ không thể tách rời nhau, vì rượu mang lại nguồn cảm hứng cho hồn thơ lai láng, mang lại khí hào sảng của đấng trượng phu, và làm toại nguyện ước mơ của người xưa, là: ngâm nga câu thơ dưới ánh trăng, cùng người tri kỷ chuốc rượu...

            Nhưng rượu không phải chỉ đem lại nguồn cảm hứng, khí hào sảng, tình tri kỷ. Rượu còn mang lại sự say sưa, quên lảng. Quên sự đời mang đầy ảo tưởng, thất vọng, bất bình. Những nhà "thơ rượu" đa số quả là những nhà thơ bất đắc chí.

            Dù là Horace nâng ly ca tụng mùa xuân, khi tuyết tan chảy trên đỉnh đồi, giữa tiếng cừu dê kêu trên đồng nội, dù là Lý Bạch say khướt dưới ánh trăng đến khi tỉnh giấc, lại chuốc rượu hát ca một mình, dù là Tản Đà cất chén quỳnh mải mê đi tìm người tri kỷ:
            Rượu thơ mình lại với mình,
            Khi say quên cả tấm hình phù du(2).
            tất cả đều tìm trong cơn say lúy túy, một giấc mộng bé, trong giấc mộng to...
            Vì cuộc đời chẳng là một giấc mộng lớn ư ?
            Xử thế nhược đại mộng,
            Hồ vi lao kỳ sinh?
            Sở dĩ chung nhật túy,
            Đồi nhiên ngọa tiền doanh... (3)
            Một giấc mộng dài đả làm đau lòng nhiều người, vì xấu nhiều đẹp ít, vì thường là một cơn ác mộng, một giấc mộng lắm phiền hà. Khác xa với cái mơ mộng của tuổi thơ, đó là cơn thực mộng phũ phàng của người từng trải:
            Đem mộng sự đọ với chân thân thì cũng mệt. (4)
            Phải, thất vọng vì cuộc đời, vì con người, ai nấy đều đả trải qua, hơn trong một giây phút. Ai nấy đều đả thoáng nhìn thế sự như mây nổi, bèo trôi, nhìn công danh phú quí như đóa hoa phù dung, như con phù du, sớm tối đả tàn:
            Tuồng ảo hóa đả bầy ra đấy,
            Cảnh phù du trông thấy mà đau (5).
            Chỉ vì định luật vô thường của vũ trụ, với sự biến đổi không ngừng của sự vật, khiến cho " mái tóc sớm như tơ xanh, mà chiều đả thành tuyết " 6, khiến cho "cây cốì tươi tốt lúc xuân sang, thu tới đả khô cằn" (7).

            Qua Héraclite, qua các nhà hiền triết "Ấn độ Dravidiens với quan niệm samsâra (luân hồi) và mâyâ (ảo giới), tính chất vô thường đả được xác định, cho đến khi được Phật Thích Ca bổ túc bằng thuyết vô ngả, là một giai đoạn quan trọng vô cùng.
            Thật vậy, nếu chỉ hiểu vạn vật vô thường, thì con người sẽ suốt đời than thân trách phận, dù lắm khi vì một mối "sầu vạn cổ" vượt khỏi thân phận cá nhân mình:
            Tiền bất kiến cổ nhân
            Hậu bất chi lai giả
            Niệm thiên địa chi du du
            Độc thương nhiên nhi lệ hạ (8).
            Ai người trước đả qua?
            Ai người sau sẽ tới?
            Ngẫm trời đất khôn cùng
            Một mình rơi giọt lệ.
            Nhà "thơ rượu" cũng vậy, vì thấy cuộc đời đầy những bụi bậm tranh giành, chỉ vì công danh tiền bạc hảo huyền, trong khi thế giới đảo điên, quốc gia tao loạn, nên tìm quên trong thơ trong rượu, dưới ánh trăng tưởng chừng như trong sáng muôn đời. Cứ như thế: tỉnh rồi lại say, say rồi lại tỉnh. Khi say, thấy "lòng vui cùng cực, sống chết ngang nhau" (9), nhưng lúc tỉnh lại cảm thấy "nỗi sầu muôn vạn mối" (10):
            Trừu đao đoạn thủy, thủy cánh lưu
            Cử bôi tiêu sầu, sầu cánh sầu (11).
            Rút gươm chém nước, nước vẫn trôi
            Nâng chén tiêu sầu, sầu càng sầu.
            Than ôi! Rượu chẳng tiêu được sầu, ngược lại rượu để lại sau cơn cuồng nhiệt hứng tình, một nỗi buồn ray rứt, khó quên. Trước vò rượu ngổn ngang, túi thơ nhầu nát...

            Chỉ vì thi sĩ không quên được cái bản ngã to lớn của mình, không biết thản nhiên trước sự thịnh suy của sự vật chỉ "như hạt sương trên đầu ngọn cỏ" (12), và không hiểu được rằng: nếu thựcmộng, thì mộng cũng chính là thực.

            Và nếu cho rằng sống Thiền là sống thực, sống hiện tại, thì còn gì ngược lại tinh thần thiền hơn là trốn tránh thực tại? là để tâm hồn chìm đắm trong một thế giới mộng ảo, say sưa? Thật chẳng khác chi thay vì tự thức tỉnh mình, lại đi sâu vào một giấc mộng con trong giấc mộng lớn! Các nhà "thơ rượu" làm như vậy, chẳng là làm cho cuộc đời đã ngắn ngủi rồi, lại còn ngắn ngủi thêm ư?

            Mà dẫu đời người ngắn ngủi đi chăng nữa, đâu có thể nào đo ví bằng thời gian. Cứ xem như con rùa sống hơn trăm năm, cây cổ thụ sống cả ngàn năm, đâu thể nào so sánh với con người sống mấy chục năm? Dĩ nhiên (hay không,... tùy bạn), đả là con người, thì phải sống một cách mảnh liệt, trọn vẹn, không để phí một giây một phút, lại càng không thể tìm quên sự sống trong rượu chè ma túy. Nếu cần, xin lấy con ve sầu làm gương: người ta cho nó tên là "sầu" nhưng nó không sầu chút nào. Trái lại, sau bảy năm đầy đọa dưới đất, nó chỉ sống bảy ngày trên cây, nên suốt ngày chú ta kêu inh ỏi , như muốn gửi vào từng tùm cây kẽ lá bức thông điệp của mặt trời và sự sống.

            Người tu Thiền, coi mình cũng như mọi sinh vật, nên ý thức được sự quí báu của mỗi giây phút sống trên thế gian này, nhưng tuyệt nhiên không chấp chặt vào sự sống đó, cũng như không chấp chặt vào một vật gì. Điềm nhiên, tự nhiên, và hồn nhiên sống, trong một niềm vui nhẹ nhàng, giải thoát. Không lo, không sợ, không sầu. Cuộc đời tuy như "một vì sao mờ dần buổi bình minh, một ngọn đèn dầu leo lét, một tia chớp trong đám mây hè, một bóng ma, một giấc mộng..."(13), nhưng tiếng hát chim hoàng anh hôm nay thanh hơn bao giờ hết, hương thơm hoa mộc hoa trà hôm nay dịu hơn bao giờ hết!

            Và chẳng cần chuốc rượu ngâm thơ, vị Thiền sư cũng thấy lòng vui man mác khi nhìn mặt trăng trong sáng chiếu qua cửa sổ túp lều tranh. Còn chúng ta? Ngày hôm nay, Xuân đả trở về với bao bải chồì non, bao đóa hoa hàm tiếu. Hảy thưởng thức cái đẹp hiện tại nhiệm mầu để rồi khi hồng thưa, xanh rậm, không còn "tiếc làm gì những đóa hoa rơi" (14). Và cũng xin trong một nụ cười cởi mở, cùng một vài nhà "thơ rượu" nhấm nháp, ngâm nga:

            Còn thơ còn rượu còn xuân mãi
            Còn mải xuân còn rượu với thơ. (15)
            Nguyên Si

            (1) Tản Đà: Ngày Xuân thơ rượu.
            (2) Tản Đà: Ngày Xuân thơ rượu.
            (3) Lý Bạch: Xuân nhật túy khởi ngôn chí.
            (4) Cao bá Quát: Ngán đời.
            (5) Ôn như Hầu: Cung oán ngâm khúc.
            (6) Lý Bạch: Tương tiến tửu.
            (7) Vạn Hạnh thiền sư.
            (8) Trần tử Ngang: Đăng U châu đài ca.
            (9) Lý Bạch: Nguyệt hạ độc chước III.
            (10) Lý Bạch: Nguyệt hạ độc chước IV.
            (11) Lý Bạch: Tuyên châu tiễn biệt hiệu thư Thúc Vân.
            (12) Vạn Hạnh thiền sư.
            (13) Kim Cương Bát nhã Ba la mật đa.
            (14) Vương Duy: Tống xuân từ
            (15) Tản Đà: Ngày Xuân thơ rượu.

            Nguyên Si
            Đã chỉnh sửa bởi CONHAKO; 06-02-2010, 05:54 PM.
            ----------------------------

            Cái đẹp của sa mạc là một cái giếng nó ẩn dấu nơi đó.

            Comment

            • #21

              Không gian văn hoá trong Thơ Xuân Nguyễn Bính

              Không gian văn hoá trong Thơ Xuân Nguyễn Bính

              Trần Hoài Anh


              Là một nhà thơ gắn bó đời mình với cuộc sống làng quê, Nguyễn Bính đã tự nhận mình là một kẻ “chân quê”:

              Hoa chanh nở giữa vườn chanh
              Thầy u mình với chúng mình chân quê
              (Chân quê)

              Vì vậy Nguyễn Bính xem việc phản ánh cuộc sống và con người ở làng quê như một món nợ văn chương. Nếu cho rằng: “Không gian nghệ thuật là mô hình nghệ thuật về cái thế giới mà con người đang sống, đang cảm thấy vị trí, số phận của mình ở trong đó” (1) thì rõ ràng không gian văn hóa trong thơ xuân Nguyễn Bính trước hết là không gian của cuộc sống làng quê với những phong tục, tập quán, những sinh hoạt văn hóa gắn bó thiêng liêng với đời sống tâm linh của người Việt. Đó là hình ảnh những cô gái, những cụ già đi trẩy hội chùa ngày xuân cầu phước lộc đã trở thành một sinh hoạt văn hóa tâm linh thấm sâu trong tâm thức người Việt:

              Trên đường cát mịn một đôi cô
              Yếm đỏ khăn thâm trẩy hội chùa
              Gậy trúc dắt bà già tóc bạc
              Tay lần tràng hạt miệng nam mô
              (Xuân về)

              Hay hình ảnh của hội chèo ngày tết như một điểm nhấn trong sinh hoạt văn hóa làng quê mỗi độ xuân về:

              Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay
              Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy
              Hội chèo làng Đặng đi qua ngõ
              Mẹ bảo thôn Đoài hát tối nay.
              (Mưa xuân)

              Và hình ảnh những cụ già tóc bạc uống rượu đề thơ, cũng là một nét văn hóa không thể thiếu trong phong tục ngày tết:

              Có những ông già tóc bạc phơ
              Rượu đào đôi chén bút đề thơ
              (Thơ xuân)

              Vì vậy, không hiểu Nguyễn Bính có cực đoan quá chăng khi nghĩ rằng:

              Kinh kỳ bụi quá xuân không đến
              Sao chẳng về đây? Chẳng về đây?
              (Sao chẳng về đây)

              Nhưng dẫu sao, đằng sau những suy nghĩ tưởng chừng như cực đoan này là một tình yêu tha thiết, gắn bó với làng quê, với truyền thống văn hóa dân tộc mà không phải ai trong chúng ta cũng còn lưu giữ được nó trong tâm thức mình. Nhất là trong cuộc sống hôm nay, khi mọi cái đều được định giá bằng “Hiện đại hóa”, “Tân thời hóa” thì những câu thơ của Nguyễn Bính như một thông điệp đầy tính nhân văn nhắc ta đừng vội quên nguồn cội. Đúng như lời của Hoài Thanh: “Nguyễn Bính vẫn còn giữ được bản chất nhà quê nhiều lắm. Và thơ Nguyễn Bính đã đánh thức người nhà quê vẫn ẩn náu trong lòng ta”. (2) Và chính sự đối lập trong cái nhìn tưởng chừng cực đoan này càng làm nổi bật không gian văn hóa trong thơ xuân Nguyễn Bính. Phải chăng đây cũng là ý thức giữ gìn bản sắc văn hóa tốt đẹp của dân tộc trước sự “xâm lăng” của văn hóa đô thị trong thời kỳ “Mưa Âu gió Mỹ” lúc bấy giờ.
              Mùa xuân làm sống lại hồn quê, và cũng làm sống lại những hoài niệm. Những hoài niệm ấy bao giờ cũng song hành với thời gian. Là thi sĩ, hơn ai hết Nguyễn Bính rất nhạy cảm với những biến sinh của vũ trụ vô thường:

              Hôm nay là xuân mai còn xuân

              Thế nên đằng sau những rộn rã của mùa xuân bao giờ cũng đọng lại dư vị của nỗi buồn, của niềm trắc ẩn, tiếc nhớ một thời quá vãng. Vì vậy không gian văn hóa trong thơ xuân Nguyễn Bính còn là không gian tâm linh, tâm thức, tâm cảm với những hoài niệm, nhớ mong đã trở thành nỗi ám ảnh khôn nguôi. Đọc những bài thơ xuân của Nguyễn Bính như “Mưa xuân”, “Xuân về”, “Xuân tha hương”, “Xuân thương nhớ”, “Cô lái đò”, “Chân quê”… ta đều bắt gặp ở đây những câu thơ đong đầy nỗi nhớ đến nao lòng:

              Xuân đã sang đò nhớ cố nhân
              …Cố nhân chẳng biết làm sao ấy
              …Phơi phới mưa sa nhớ cố nhân
              …Một cánh đào rơi nhớ cố nhân

              Rõ ràng cụm từ “nhớ cố nhân” được thi sĩ sử dụng ở nhiều bài thơ như một dụng ý nghệ thuật. Và chính mô típ nghệ thuật này đặt trong quan hệ với cảnh xuân, tình xuân đã hình thành một không gian văn hóa trong thơ xuân Nguyễn Bính. Dường như việc miêu tả mùa xuân chỉ là cái cớ để tác giả bộc lộ nỗi nhớ của mình với cảnh cũ người xưa đã một thời vang bóng. Và sự tiếc nuối đầy “chủ nghĩa cảm thương” này cũng là âm thanh đồng vọng của thời đại dội vào thơ Nguyễn Bính. Một thời đại mà biết bao nhà thơ cùng thời với ông đều muốn hướng về quá vãng đến nỗi muốn ngăn cả bước đi của thời gian:

              Ai đâu trở lại mùa thu trước
              Nhặt lấy cho tôi những lá vàng
              Với cả hoa tươi muôn cánh rã
              Về đây đem chắn nẻo xuân sang.
              (Xuân – Chế Lan Viên)

              Nguyễn Bính dẫu có khác Chế Lan Viên ở chỗ không muốn nhặt lá vàng mùa thu để chắn nẻo xuân sang, những rõ ràng trong thơ Nguyễn Bính sự hoài niệm về những cái đã qua, đã xa cũng là một điều nhức nhối trong tâm hồn thi sĩ. Đó là những nỗi đau về tình yêu tan vỡ, những mộng ước không thành nên bao giờ cũng để lại trong lòng thi sĩ những tiếc nuối, nhớ mong. Điều đó đã tạo nên không gian tâm tưởng trong thơ xuân Nguyễn Bính.

              Tất cả mùa xuân rộn rã đi
              Xa xôi người có nhớ thương gì
              Sông xưa chảy mãi làm đôi ngả
              Ta biết xuân nhau có một thì.
              (Cô lái đò)

              Và không gian tâm tưởng này cũng là một biểu hiện của không gian văn hóa trong thơ xuân Nguyễn Bính. Không gian tâm tưởng ấy là lôgic biện chứng của tâm trạng nhân vật trữ tình, mà cũng chính là của tâm hồn thi sĩ. Đó là hệ quả của không gian hoài niệm, không gian nỗi nhớ, “là một hiện tượng tâm linh nội cảm chứ không phải là một hiện tượng địa lý, vật lý”. (3) Vì vậy, không gian tâm tưởng trong thơ xuân Nguyễn Bính không chỉ là những hoài niệm, nhớ mong của tình yêu tan vỡ mà còn là nỗi xa xót đến quặn lòng về cố hương mỗi khi xuân về mà thi nhân vẫn phiêu bạt, tha hương:

              Hai ta lưu lạc phương Nam này
              Đã mấy mùa qua én nhạn bay
              Xuân đến khắp trời hoa rượu nở
              Riêng ta với người buồn vậy thay
              (Hành phương Nam)

              “Riêng ta với người buồn vậy thay”! Câu thơ như một lời độc thoại, là nỗi buồn lặn vào bên trong âm ỉ mà rất đỗi mãnh liệt rồi kết tinh lại thành nỗi cô đơn làm rợn ngợp tâm hồn. Trong không gian phiêu bạt, không gian tha hương ấy, nỗi nhớ và sự hoài niệm về quê hương luôn là tình cảm thường trực trong tâm hồn thi sĩ. Nỗi nhớ ấy ngày thường chỉ là một cơn gió thoảng qua rồi tan biến trong những bộn bề của cuộc mưu sinh. Nhưng lúc xuân về, nỗi nhớ ấy nhiều khi trỗi dậy, đông kết lại thành giá băng làm nhức buốt tâm hồn thi nhân. Ta hãy nghe Nguyễn Bính tâm sự:

              Tết này chưa chắc em về được
              Em gửi về đây một tấm lòng
              Chao ơi, tết đến em không được
              Trông thấy quê hương thật não nùng
              (Xuân tha hương)

              Còn đây là nỗi lạc loài trên đất khách quê người mà trong cuộc đời mỗi chúng ta chí ít cũng có một đôi lần ta thầm đọc câu thơ như có “thần” của Nguyễn Bính để rồi tự thấy lòng mình thảng thốt, bâng khuâng:

              Một thân lữ thứ sầu phong tỏa
              Đốt ngọn đèn lên bóng rợn tường
              (Xuân tha hương)

              Rõ ràng, từ những hoài niệm, nhớ thương trong tình yêu đôi lứa đã réo gọi những hoài nhớ về quê hương. Tất cả đã tạo thành một âm hưởng chủ đạo của không gian văn hóa tâm tưởng trong thơ xuân Nguyễn Bính và làm nên đặc trưng thi pháp thơ ông. Đúng như Đỗ Lai Thúy đã nhận xét: “Nỗi hoài niệm quê hương chẳng những là một hương thơm đặc biệt của thơ Nguyễn Bính mà còn là một dòng nước mạnh làm thay đổi cả đôi bờ thể loại của dòng sông thơ ông”. (4) Chính vì vậy, đọc thơ xuân Nguyễn Bính, ta thấy tác giả không chỉ đơn thuần sử dụng thể thơ lục bát truyền thống mà còn sử dụng linh hoạt thể thơ bảy chữ để thể hiện không gian tha hương, không gian phiêu bạt qua hàng loạt những câu thơ đều có chung một nét nghĩa chỉ sự tha hương:

              Chén rượu tha hương càng đắng lắm
              Trăm hờn nghìn giận suốt mùa đông.

              Một thân lữ thứ sầu phong tỏa
              Đốt ngọn đèn lên bóng rợn tường

              Một thân lận đận nơi trời xa
              Nằm nghe mưa rơi trên mái nhà.
              (Xuân tha hương)

              Hai ta lưu lạc phương Nam này
              Đã mấy mùa qua én nhạn bay

              Quê nhà xa lắc xa lơ đó
              Ngoảnh lại tha hồ mây trắng bay

              Ta đi nhưng biết về đâu chứ
              Đã đẩy phong yên lộng bốn trời.
              (Hành phương Nam)

              Sao chẳng về đây nỡ lạc loài
              Giữa nơi thành thị gió mưa phai
              (Sao chẳng về đây)

              Rõ ràng trong các câu thơ trên, ta thấy tần số xuất hiện của các từ ngữ mang nét nghĩa chỉ sự tha hương như “lưu lạc”, “xa lắc xa lơ”, “xa khơi quá”, “biết về đâu chứ”, “lữ thứ”, “lận đận trời xa”, … cùng với tựa đề một số bài thơ như “Xuân tha hương”, “Xuân vẫn tha hương”, “Xuân lại tha hương”, “Hành phương Nam”… ta đã thấy rõ không gian tha hương, không gian phiêu bạt trong thơ xuân Nguyễn Bính là một không gian văn hóa nói lên niềm hoài niệm, nỗi nhớ thương về quê hương của những người xa xứ, đúng như nhận định của Hoài Việt: “Những bài thơ viết về mùa xuân có hồn là mượn mùa xuân mà nhớ: nhớ cảnh, nhớ người, nhớ những ngày đi không trở lại, nhớ quá khứ ngọt ngào cũng có mà cay đắng cũng nhiều. Nhưng trước hết là nhớ nhà” (5) Nhưng cuộc sống bên cạnh nỗi buồn còn có niềm vui. Vì thế không gian văn hóa trong thơ xuân Nguyễn Bính không chỉ có nỗi buồn, niềm nhớ thương với những hoài niệm xa xăm, với những ngọt ngào và cay đắng mà còn có một không gian văn hóa khác, đó là không gian của ước mơ, hy vọng. Bài thơ “Mùa xuân xanh” là một biểu hiện sinh động của không gian ấy:

              Mùa xuân là cả một mùa xanh
              Giời ở trên cao lá ở cành
              Lúa ở đồng tôi và lúa ở
              Đồng nàng và lúa ở đồng xanh

              Mùa xuân bao giờ cũng đem lại màu xanh cho cuộc sống, điều ấy là một qui luật tất yếu. Vì thế con người trong mùa xuân dường như cũng đẹp hơn, tươi tắn hơn, yêu đời hơn, nhất là với những người con gái vốn được coi là thiên sứ của cái đẹp. Đây cũng là một quan niệm nghệ thuật về con người của nhà thơ trong cái nhìn qui chiếu với tự nhiên mà phải chăng cơ sở của nó là quan niệm con người gắn bó hài hòa với thiên nhiên của triết học phương Đông. Chính vì thế, trong thơ xuân Nguyễn Bính ta bắt gặp một mô típ nghệ thuật được tác giả sử dụng với tần số cao, đó là sự xuất hiện hình ảnh đôi má hồng thiếu nữ như là một tín hiệu của mùa xuân khiến cho không gian văn hóa trong thơ xuân của ông không chỉ là không gian tràn đầy sức trẻ mà còn là không gian của ước mơ, hy vọng:

              Đã thấy xuân về với gió đông
              Với trên màu má gái chưa chồng

              (Xuân về)


              Hình như hai má em bừng đỏ
              Có lẽ là em nghĩ đến anh.
              (Mưa xuân)

              Cầu mong cho chị vui như tết
              Tóc chị bền xanh má dậy hồng.

              Vườn ai thấp thoáng hoa đào nở
              Chị vẫn môi son, vẫn má hồng.
              (Xuân tha hương)

              Từng cô em bé so màu áo
              Đôi má hồng lên nhí nhảnh cười.
              (Thơ xuân)

              Xuân của đất trời muôn đời vẫn thế, vẫn trời trong, hoa thắm, lá xanh… Nhưng qua đôi mắt của mỗi nhà thơ, cái không gian xuân ấy được thể hiện với những sắc thái khác nhau, đó là không gian văn hóa mang tính quan niệm, thể hiện quan niệm về con người, về cuộc đời của nhà văn.
              Mùa xuân gần như là một định mệnh trong cuộc đời Nguyễn Bính. Tính từ ngày ông “ra ngoài cõi sống” đến nay đã trên bốn mươi năm. Bốn mươi năm ông vĩnh viễn giã từ mùa xuân của nhân gian, để về một cõi khác. Nhưng sự nghiệp thơ ca của ông nói chung và những bài thơ xuân nói riêng vẫn sống mãi với muôn đời. Những bài thơ ấy đã vượt lên cái “định mệnh” ngắn ngủi và khắc nghiệt của đời ông để trở thành bất tử. Bởi lẽ, thơ ông tự nó đã là mùa xuân bất tận, vì nó mang trong mình hồn thiêng của quê hương đất nước. Đó là một điều, nói như Hoài Thanh: “mà người ta không thể hiểu được bằng lý trí, một điều quí vô ngần: hồn xưa của đất nước”. (6) Và cái hồn xưa của đất nước ấy cũng chính là cái hồn của không gian văn hóa trong thơ xuân Nguyễn Bính. Nó là nguồn mạch tạo nên cảm hứng sáng tạo độc đáo cho thơ ông. Vì nói như Tạ Tỵ “Bính là con người làm văn nghệ duy nhất ở thời đó không chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Tây phương cũng như Đông phương. Bính làm thơ một mình và thừa hưởng cái kho tàng văn hóa dân tộc qua các vần ca dao, qua nếp sống mộc mạc quê mùa. Do đó, thơ Bính mang tính chất hồn nhiên với sắc thái cực kì lãng mạn trong lĩnh vực tình yêu”. (7) Phải chăng đó cũnglà cơ sở tạo nên những bài thơ chứa đựng tình yêu say đắm của ông với mùa xuân như chính lời thơ ông viết:
              Xuân sang lưu luyến lòng tôi quá

              (Sao chẳng về đây)



              Chú thích:
              (1) (3) Trần Đình Sử, Thi pháp truyện Kiều, Nxb Giáo dục, H, 2002, tr.143. tr.143
              (2) (6) Hoài Thanh, Thi nhân Việt Nam, Nxb Văn học, H, 2000, tr.335, tr.336
              (4) Đỗ Lai Thúy, Mắt thơ, Nxb Văn hóa thông tin, H, 2000, tr.117.
              (5) Hoài Việt, Nguyễn Bính thi sĩ của yêu thương, in trong tập “Nguyễn Bính nhà thơ chân quê”, Nxb Văn hóa thông tin, H, 2000, tr.187.
              (7) Tạ Tỵ, Mười khuôn mặt văn nghệ (tác giả giữ bản quyền), S G, 1970, tr.127

              Lên trang viet-studies ngày 4-2-2010
              Đã chỉnh sửa bởi CONHAKO; 06-02-2010, 06:05 PM.
              ----------------------------

              Cái đẹp của sa mạc là một cái giếng nó ẩn dấu nơi đó.

              Comment

              • #22

                XÔNG ĐẤT ĐẦU NĂM


                Năm nay bạn đã chọn cho mình người xông đất nhà? Chuyện xông đất có nhiều nét văn hóa thú vị.
                Tục lệ xông đất đã có lâu đời ở Việt Nam. Nhiều người quan niệm ngày mùng Một "khai trương" một năm mới. Họ cho rằng vào ngày này, nếu mọi việc diễn ra suông sẻ, may mắn, cả năm cũng sẽ được tốt lành, thuận lợi. Ngay sau thời khắc giao thừa, bất cứ người nào bước từ ngoài vào nhà với lời chúc năm mới được coi là đã xông đất cho gia chủ.
                Gia chủ sẽ căn cứ vào sự thành đạt, tài cán, đức độ, sức khỏe... của người xông đất để đoán vận hạn cho mình. Tục xông đất thể hiện khát vọng về sự thịnh vượng, an khang và người xông đất như một dấu hiệu để người ta giải đoán trước hậu vận của năm đó.
                Ngay sau thời khắc giao thừa, bất cứ người nào bước từ ngoài vào nhà với lời chúc năm mới được coi là đã xông đất cho gia chủ
                Vì sao quan trọng chuyện xông đất?
                Với người Việt, tục xông đất ở các vùng gần như giống nhau. Khách đến xông đất phải đến vào sáng sớm ngày mùng Một (vì muốn là gười khách đầu tiên), mang theo quà biếu như trái cây, bánh mứt và tiền lì xì cho trẻ con trong nhà. Chủ nhà, do đã sắp đặt trước, sẽ tiếp đón niềm nở và nhận những lời chúc tốt lành.
                Người đến xông đất thường chỉ đến thăm, chúc tết chừng 5-10 phút chứ không ai ở lâu, hầu cho mọi việc trong năm của chủ nhà cũng được trôi chảy thông suốt. Người đi xông đất có niềm vui vì đã làm được việc phước, người được xông đất cũng sung sướng vì tin tưởng gia đạo sẽ may mắn trong suốt năm tới.
                Cứ đến dịp cuối năm, hầu như ai cũng có ý tìm chọn trong họ hàng hay láng giềng những người tốt tính và làm ăn phát tài, có cuộc sống suôn sẻ để "xông đất" nhà mình. Tục xông đất đầu năm có ý nghĩa biểu trưng sâu sắc, thể hiện mong muốn hướng tới những điều tốt lành của người dân Việt.
                Bất cứ ai cũng muốn được người tử tế, tốt tính đến xông đất nhà mình. Họ muốn trở nên tốt lành, thiện hảo hơn năm cũ. Vì thế, người ta thường để ý tìm người hợp tuổi với mình để dặn trước nhờ xông đất. Ví dụ, có người quan niệm người tuổi Tý tính nét bộc trực nhưng lời nói, cử chỉ rất cẩn thận, chặt chẽ, sống rất tiết kiệm. Họ dễ bị kích động nhưng tính tự chủ khá cao, ngoại giao khéo, thích nơi náo nhiệt. Tuổi này xung khắc với tuổi Ngọ và hợp với tuổi Sửu. (Năm Tý nên chọn tuổi tốt nhất là Tân Sửu hay Qúy Sửu xông nhà).
                Người tuổi Sửu cần cù, nhẫn nại, bảo thủ và quá thận trọng trong công việc. Bề ngoài họ mềm mỏng, chất phác và rất tôn trọng truyền thống, sống kỷ luật, thẳng thắn, công minh, không thích dùng thủ đoạn và hay ghi chép sổ sách. Tuổi này xung khắc với tuổi Mùi và hợp với tuổi Tý. Mời người tuổi Bính Tý hoặc Mậu Tý đến xông nhà là tốt nhất.
                Mỗi dân tộc một tập tục
                Một số dân tộc ở nước ta cũng có tục xông đất. Với người Mường, khi thời khắc giao thoa giữa năm cũ và năm mới đến, thanh niên nam nữ sẽ tụ tập sẵn ở nơi trung tâm của làng rồi cùng nhau tỏa đi khắp nơi, đến từng nhà xông đất, chúc Tết cho tới khi trời sáng.
                Ngày đầu tiên của năm, tại các bản làng người Mường diễn ra các lễ hội với nhiều trò chơi thú vị. Các chàng trai cô gái trong những bộ quần áo đẹp nhất cùng nhau hòa mình vào các trò chơi như: tung còn, kéo co, đánh đu... Đêm đến, từng đôi trai gái dắt tay nhau đi chúc Tết gia đình, bạn bè hoặc chụm vào với nhau quanh bếp lửa bên bình rượu cần. Họ vừa uống vừa ca hát để rồi sáng hôm sau lại có mặt thật sớm tại nơi những lễ hội diễn ra. Tết của người Mường thường diễn ra hết ngày mùng Ba, nhưng tùy từng nơi kết thúc sớm, muộn khác nhau.
                Sáng mùng Một, người Thái dậy sớm, múc nước luộc bánh chưng cho mỗi người uống một ít, có lẽ để phòng đau bụng. Ngày mùng Một, người phụ nữ trong nhà được đem xôi đã đỗ ra quạt ở giữa gian cúng ma nhà (bình thường họ không được "bén mảng" đến khu vực đó!). Sau đó người ta dọn ra hai hoặc ba mâm cúng, mâm đặt trên cao để cúng tổ tiên nhà chồng, còn mâm thấp cúng tổ tiên nhà vợ.
                Người Kinh kiêng đến nhà, nhưng người Thái mùng Một đã đi nườm nượp đến nhà nhau chúc Tết. Họ chỉ kiêng vứt lá dong xuống gầm sàn, kiêng quét nhà. Tối ngày mùng Một họ đã làm lễ tạ. Từ chiều mùng Một, thanh niên bắt đầu đi chơi và muốn đi đến lúc nào cũng được, đến làng nào ăn uống ở làng ấy, có khi đi đến mùng Mười mới về. Các trò chơi khá náo nhiệt, gồm đánh cầu lông (cầu lông gà), ném còn...
                Người Nùng mong được sẻ chia niềm vui với tất cả mọi người. Sáng mùng Một Tết, ngày thiêng liêng nhất trong năm, người ta cắt những băng giấy đỏ dán lên tất cả những công cụ lao động trong nhà và mỗi gốc cây trong vườn, chuồng trại... Không những thế, họ còn thắp hương cầu thần linh phù hộ cho mọi thứ xung quanh mình luôn được may mắn, tốt đẹp.
                Ngày mùng Một Tết, người Nùng không đến nhà nhau. Ai nấy ở nhà nấu những món ăn của ngày Tết. Ngày mùng Hai là ngày họ đi lễ Tết bên ngoại, lễ vật là một con gà trống thiến, một cặp bánh chưng xanh, vài phong bánh khảo đặt lên bàn thờ bên ngoại. Từ ngày mùng Ba cho đến những ngày sau đó trong tháng Giêng, anh em bạn bè xa gần mới đến thăm hỏi, chúc Tết nhau.
                Tết của người Tày bắt đầu vào ngày 30 và kết thúc vào khoảng sáng mùng Ba. Ngày 27 hay 28 các gia đình thịt lợn, gói bánh... Bàn thờ được lau chùi, người ta buộc bốn cây mía vào bốn góc chân bàn thờ, quan niệm đó là cái gậy để tổ tiên chống. Tối 30, vừa tiếp bạn bè đến chơi, phụ nữ trong nhà vừa làm bỏng, chè lam, bánh khảo. Mọi sự thăm viếng kết thúc trước 12g đêm 30. Sau đó ai về nhà nấy. Trẻ con phải thức trực tuổi cả đêm.
                Khác với người Thái, người Tày kiêng sáng mùng Một có bất kỳ người nào vào nhà. Họ chọn mời người xông nhà là người có đạo đức trong bản, người có phúc lớn, kỵ nhất là người có tang hoặc bị ma gà ám... Đàn ông Tày mùng Một chơi cha (tức bố mẹ vợ), mùng Ba chơi thày (thày cúng). Một số trò chơi cũng được phát động, phổ biến nhất là tung còn.
                Với người Dao sớm mùng Một, lúc trời còn tối, một người trong nhà thường là trai tráng, khỏe mạnh, tay cầm đuốc, tay cầm dao chạy ra ngoài ngõ rồi chạy quay vào trong nhà, chém vào không khí, miệng hô hoán "đuổi nốt con ma cuối cùng" ra khỏi nhà mình. Sau đó, cả gia đình xúm xít chuẩn bị bữa cơm cúng đầu tiên của năm mới. Gia đình người Dao là gia đình nhiều thế hệ, do vậy, có bao nhiêu cặp vợ chồng cũng có bấy nhiêu mâm cỗ để vái vọng hương hồn họ ngoại (người đã có công sinh thành những người con dâu cho gia đình mà chưa có dịp đến đáp).
                Người Dao ở Việt Bắc cho rằng, ngày đầu năm không được làm việc mà chỉ lo vui chơi, thăm viếng và chúc tụng nhau. Nhà nào nhà nấy đều trang hoàng sáng sủa và dán nhiều câu đối bằng chữ Hán lên cột nhà hay trên các vách tường để đón mừng xuân. Người Dao đón Tết bằng Tết nhảy gọi là "Nhiang chằm Đao" nhằm mục đích rèn luyện sức khỏe và võ nghệ.
                Tết nhảy bắt đầu trước Tết Nguyên đán chừng vài ba hôm. Thanh niên phải tập các điệu múa, điệu nhảy, làm gương đao bằng gỗ để múa. Mỗi người phải nhảy múa đến hàng trăm lượt trong tiếng trống, tiếng thanh la giục giã...
                Người H"mông ở vùng cao Tây Bắc và Việt Bắc ăn Tết rất thịnh soạn, chẳng kém gì ở miền xuôi. Trong nhà trang hoàng đủ màu sắc, nhưng màu đỏ được ưa chuộng nhất. Tết Nguyên đán của người H"mông gọi là NaoX-Cha. Ngoài thịt ra, còn có bánh làm bằng bột nếp, bánh chưng ít khi dùng. Tết của người H"mông thường tổ chức giữa mùa đông giá rét trước hay sau Tết Dương lịch mấy hôm. Đêm giao thừa người H"mông không có tục xông đất mà các gia đình thường cử con trai đi "mở nước", tức là đi lấy nước ở sông suối đem về nhà cúng.
                Sáng mùng Một Tết, các chức sắc Chăm cùng toàn thể bà con xa gần đều tề tịu về ba nơi hành lễ, quần áo mới, chỉnh tề. Các thày cả và các bà bóng ngồi theo phẩm trật, thứ tự cao thấp trong căn nhà dựng trước cửa đền hay cửa tháp. Ngày Tết, người Chăm theo đạo Hồi thường đến nhà thờ đạo Hồi vào ngày đầu năm để nghe các chức sắc đọc kinh Koran, cầu nguyện đấng Allah. Sau đó, các tín hữu ra sông, suối để tắm tẩy uế những cái xui, xấu của năm cũ và rước cái mới, cái tốt lành của năm mới.
                Ngày mùng Hai Tết là ngày dành riêng cho các chức sắc ăn tết tại nhà. Qua ngày thứ ba trở đi, cho đến ngày thứ 7 hay thứ 9 đến lượt mọi người tổ chức ăn tết, lần lượt từ nhà này sang nhà khác. Tuy nhiên, mỗi gia đình chỉ lựa chọn một ngày duy nhất trong khoảng thời gian quy định.
                Xông đất đem an lành
                Ngày nay, đối với những người làm kinh doanh, việc chọn "ngày lành tháng tốt" để bắt đầu công việc, chọn người hợp tuổi để khai trương, xông đất đầu năm không còn là chuyện quá hiếm. Giới doanh nhân tâm niệm ngày đầu "xuất quân" suôn sẻ sẽ đem lại một năm làm ăn may mắn.
                Trên đây là một vài tục đón Tết, xông đất đầu năm của một số dân tộc. Dẫu có nhiều quan niệm khác nhau, nhưng xông đất vẫn là một nét đẹp văn hóa cần được gìn giữ. Trong mùi hương trầm thoang thoảng ấm cúng, người đến xông đất cùng gia chủ rót tách trà ngon, mời nhau chiếc bánh ngọt hay uống một ly rượu, rồi cùng cầu chúc những điều tốt đẹp cho nhau trong năm mới.
                (Tiếp Thị Gia Đình, Vietnamnet)


                Comment

                • #23

                  TRANH THỜ NGŨ HỔ
                  CỦA HAI DÒNG TRANH DÂN GIAN VIỆT NAM

                  Tâm Không Vĩnh Hữu


                  Tranh thờ Ngũ Hổ không xa lạ gì với dân ta. Có hai bức tranh thờ Ngũ Hổ khác nhau, đã và đang được lưu truyền trong dân gian từ vài trăm năm trước đến tận hôm nay: một bức của dòng tranh Hàng Trống, bức kia của dòng tranh Đông Hồ.




                  Tranh Hàng Trống được làm chủ yếu tại phố Hàng Nón, Hàng Trống của Hà Nội xưa. Hàng Trống xưa kia thuộc đất cũ của thôn Tự Pháp, tổng Tiêu Túc, huyện Thọ Xương, nay thuộc quận Hoàn Kiếm- Hà Nội. Phố Hàng Trống nằm kề các phố Hàng Nón, Hàng Hòm... là nơi chuyên sản xuất đồ thờ như: tranh thờ, quạt, lọng, trống, cờ...

                  Dòng tranh này hiện nay gần như đã bị mai một, chỉ còn lưu giữ trong các viện bảo tàng, nghệ nhân vẽ tranh Hàng Trống cũng giảm dần đến ít ỏi. Dòng tranh này có hai thể loại tranh chính: tranh thờ và tranh Tết, mạnh nhất là tranh thờ dùng trong sinh hoạt tín ngưỡng Đạo giáo. Các nhà chuyên môn, những nhà nghiên dân gian đều cho rằng dòng tranh Hàng Trống xuất hiện từ khoảng… 400 năm trước, là kết quả của sự giao thoa tinh hoa giữa Phật giáo và Nho giáo, cũng như giữa loại hình tượng thờ ở đình chùa miếu mạo với những nét đẹp trong sinh hoạt văn hoá hằng ngày.

                  Tranh Hàng Trống sử dụng kỹ thuật nửa in nửa vẽ, tranh chỉ in ván nét lấy hình, còn màu là thuốc nước, tô bằng bút lông mềm rộng bản, một nửa ngọn bút chấm màu, cỡn nửa ngọn bút kia chấm nước lã, tô tranh theo kỹ thuật vờn màu. Tranh được in trên giấy dó bồi dầy, hoặc giấy báo khổ rộng.

                  Tranh Đông Hồ, là dòng tranh dân gian xuất xứ từ làng Đông Hồ, xã Song Hồ, huyện Thuận Thành- tỉnh Bắc Ninh. Tranh được in hoàn toàn bằng tay với các bản màu, mỗi màu dùng một bản, và bản màu đen chạy nét là công đoạn chót. Nhờ cách in này, tranh được “ra lò” với số lượng lớn, nhưng bị hạn chế về mặt kích thước, tranh không lớn quá 50 cm mỗi cạnh. Nét dân gian dân dã của tranh Đông Hồ được biểu hiện ở màu sắc và chất liệu giấy in. Giấy in tranh Đông Hồ được gọi là giấy điệp, loại giấy được chế biến từ vỏ con điệp (một loại sò vỏ mỏng ở vùng biển) nghiền nát, trộn với hồ (hồ được nấu từ bột gạo tẻ, hoặc gạo nếp, có khi nấu bằng bột sắn) rồi dùng chổi lá thông quét lên mặt giấy dó. Màu sắc dùng trong tranh là màu tự nhiên từ cây cỏ như màu đen (từ than), màu xanh (từ gỉ đồng, lá chàm), màu vàng (từ hoa hòe), màu đỏ (từ sỏi son, gỗ vang) v.v…

                  Tranh thờ Ngũ Hổ là bức tranh thể hiện tín ngưỡng của người Lạc Việt về một sức mạnh thiên nhiên huyền bí. Tranh thờ các vị “Chúa Sơn Lâm” này thường được đặt dưới tranh tượng thờ Phật, hoặc thánh thần. Một điều đương nhiên là những ai đã thờ “Ngũ Hổ” đều tin rằng có một sức mạnh siêu nhiên (tha lực huyền bí) luôn gia hộ độ trì cho gia đạo bình an, và khả dĩ chặn ngăn được những tai ương hiểm họa.




                  Các nhiều nhà nghiên cứu văn hóa dân gian cho rằng tục thờ Ngũ Hổ bắt nguồn từ nguyên thủy, nhất là giai đoạn con người bắt đầu bước vào cuộc sống nông nghiệp, vào thời điểm đó thì loài hổ (cọp, kễnh, hùm) chính là một sức mạnh thiên nhiên vừa gần gũi, lại vừa là mối họa ghê gớm đối với con người, vì vậy mà con người phải thờ hổ.

                  Theo nguồn sử liệu, ngay cả tận trong miền cực Nam của tổ quốc, vùng U Minh nổi tiếng “xuống sông hốt trứng cá sấu, lên bờ xỉa răng cọp”, khi người dân tứ xứ về đó khẩn hoang lập nghiệp, chịu hết siết sự lộng hành của”Ông Ba Mươi”, đánh bẫy không xong, dân làng mới nghĩ cách lập miếu thờ hổ, mỗi khi khấn vái cầu xin xong, họ mang đầu heo ra cúng rồi để lại giữa rừng. Vậy rồi, từ khi được lập miếu và cúng đầu heo, mấy “Ông Ba Mươi” có lẽ hài lòng do được cung phụng đầy đủ, bớt được cái công rình mò, nên đã “hiền đi”, bớt quấy phá. Người dân vì thế càng tin hổ rất linh thiêng, từ đó mới nảy sinh lệ vẽ hình hổ treo làm bùa - gọi là “Hắc Hổ Trấn Phù”- để cầu cho con nít dễ nuôi, khỏi sài đẹn hay ma quỷ bắt. Đôi khi người ta còn treo bùa “Ngũ Hổ” - 5 ông Thần Cọp - với năm sắc của Ngũ Hành (xanh, đỏ, vàng, trắng, đen) đặng cầu cho gia đạo được bình yên”.

                  Tranh thờ Ngũ Hổ có xuất xứ từ học thuyết vũ trụ quan cổ gọi là thuyết Âm Dương- Ngũ Hành. Theo thuyết này thì Ngũ Hành là một sự vận động vật chất từ bản nguyên của vũ trụ sau Âm Dương, sự tương tác vận động của Ngũ Hành trong sự chi phối của Âm Dương tạo nên sự hiện hữu của vũ trụ hiện nay. Mỗi hành có một màu đặc trưng: hành Thổ màu Vàng, hành Hỏa màu Đỏ, hành Thủy màu Đen, hành Kim màu Trắng, và hành Mộc màu Xanh Lá.

                  Xem cả hai bức tranh thờ Ngũ Hổ của hai dòng tranh dân gian Việt Nam, chúng ta sẽ thấy có tất cả năm hình tượng hổ. Một con ở trung tâm (chính giữa tranh), bốn con trấn bốn góc. Theo thuyết Âm Dương Ngũ Hành thì hành Thổ là sự qui tàng của bốn hành kia trong chu kì vận động của Ngũ hành, vì vậy Hổ Vàng- Hành Thổ đứng giữa và lớn hơn cả.

                  Nếu lưu ý bố cục sắp xếp vị trí các con Hổ trong tranh của hai dòng tranh, ta sẽ thấy sự khác nhau.

                  Bốn con hổ bốn góc trong tranh Hàng Trống được bố trí như sau:

                  Hổ Xanh đứng dưới nhìn lên, được tượng trưng cho hành Mộc, trấn thủ phương Đông.

                  Hổ Đỏ đứng dưới nhìn lên, đối xứng với Hổ Xanh, tượng trưng cho hành Hỏa, trấn thủ phương Nam.

                  Hổ Trắng đứng phía sau bên trái Hổ Vàng, tượng trưng cho hành Kim, trấn thủ phương Tây.

                  Đen: đứng phía sau bên phải Hổ Vàng, đối xứng với Hổ Trắng, tượng trưng cho hành Thủy, trấn thủ phương Bắc.

                  Bốn con hổ trong tranh Đông Hồ thì vị trí sắp xếp khác đi.

                  Theo các nhà nghiên cứu thì “Ngũ Hổ Hàng Trống” thuận theo chiều kim đồng hồ, gọi là Ngũ Hành Tương Sinh, còn “Ngũ Hổ Đông Hồ” thì nghịch chiều kim đồng hồ, gọi là Ngũ Hành Tương Khắc.

                  Trên tranh Đông Hồ thì Hổ Vàng đặt chân trước lên trên một hòm ấn có khắc sáu vạch, còn trên tranh Hàng Trống thì Hổ Vàng không chặn lên hòm ấn, mà ôm lấy miếng phù ghi dòng chữ: “Pháp Đại Uy Nỗ” (qui luật chủ yếu bao trùm).

                  Cả hai tranh Ngũ Hổ đều có điểm xuyết thêm những hình tượng:
                  mặt trời đỏ, năm lá cờ ngũ sắc và năm thanh kiếm.

                  Mặt trời đỏ là biểu tượng của Thái cực và xuất xứ phương Nam (phương Nam màu đỏ theo thuyết Ngũ hành) của nền văn hóa Đông phương.

                  Cờ lệnh và kiếm thể hiện sức mạnh của tự nhiên trong qui luật vận động của Âm Dương Ngũ Hành, chi phối sự vận động của vũ trụ và sự tương tác với Trái đất.

                  Xem và hiểu tranh thờ Ngũ Hổ mới thấy: người xưa thờ hổ không chỉ đơn thuần là vì khiếp sợ một loài thú dữ gây nỗi kinh hoàng, cũng không chỉ vì “vẽ” ra những đấng thần linh huyễn hoặc vô hình để nương tựa khấn cầu, mà còn gói ghém gửi gắm vào trong đó một nền minh triết đầy tư duy sáng tạo, lẫn tâm linh huyền ảo. Tính minh triết trong tranh dân gian của người xưa đáng để cho bao người hậu thế với trang bị khoa học hiện đại, với công nghệ thông tin ngang ngửa với phép thân thông, cũng phải nghiêng mình cúi chào và điên đầu nghiên cứu tìm hiểu!

                  Thời đại hiện nay, người ta dường như đã hết còn thờ hổ, rất ít thấy ai còn dùng loại tranh dân gian thờ Ngũ Hổ, vì rừng núi ngày càng bị khai phá mất dần đi, muôn thú trong đó có loài hổ có nguy cơ bị tuyệt chủng, đã được ghi danh vào “Sách Đỏ Thế Giới” thì lấy đâu mà sợ hãi để rồi phải thờ phụng với cúng kiến? Còn chăng, chỉ thấy những con hổ trong Vườn bách thú, trong các Khu du lịch- giải trí, những con hổ đã bị khống chế, bằng xích xiềng chuồng rào, hay những con hổ đã được thuần hóa thành những “con mèo to” hiền lành ngoan ngỗn trong các gánh xiếc cho mọi người mua vui. Đã không thờ thì thôi, người ta còn săn lùng truy sát loài hổ, “đông lạnh” hổ trong những cốp xe để vận chuyển mua bán trái phép, chế biến hổ thành một bài thuốc bồi bổ cơ thể- tăng cường sức khỏe có tên gọi là “Cao Hổ Cốt”… mặc cho các Tổ chức bảo vệ Động vật Hoang dã kêu gào bao năm qua…

                  Nhưng dù gì đi nữa, tranh thờ Ngũ Hổ của hai dòng tranh dân gian Việt Nam vẫn còn đó, và bất tử với thời gian.


                  %%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%

                  Bộ Tem Tranh Ngũ Hổ (Hàng Trống - Hà Nội)






                  Hổ trắng



                  Hổ đỏ

                  :

                  Hổ vàng

                  :

                  Hổ xanh



                  Hổ đen




                  Ngũ Hổ



                  Ngũ Hổ
                  261B - Block 13


                  Đã chỉnh sửa bởi CONHAKO; 08-02-2010, 12:09 AM.
                  ----------------------------

                  Cái đẹp của sa mạc là một cái giếng nó ẩn dấu nơi đó.

                  Comment

                  • #24

                    Bài thơ XUÂN VÃN
                    của Ðiều Ngự Giác Hoàng - Trần Nhân Tông

                    Thích Thông Huệ

                    Vua Trần Nhân Tông là một minh quân đời thứ 3 triều Trần. Từ lúc còn là Thái Tử, Ngài đã được vua cha cho học Thiền cùng Tuệ Trung Thượng Sĩ, biết rõ đường lối tu hành theo tông chỉ “Phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc” (Xoay lại soi sáng chính mình là phận sự gốc, không cầu bên ngoài mà được).

                    Khi lên ngôi, dù bộn bề trăm việc đối nội và đối ngoại, Ngài vẫn có chỗ sống riêng của mình, tuy ở trong trần mà vẫn vui với Ðạo. Năm 41 tuổi, Ngài nhường ngôi cho con, sau đó xuất gia về núi Yên Tử, lấy hiệu Hương Vân Ðại đầu đà, được tôn xưng là Ðiều Ngự Giác Hoàng.

                    Ngài sáng lập dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử mang đậm bản sắc dân tộc, trở thành vị Sơ Tổ của dòng Thiền đặc thù Việt Nam . Bài thơ “Xuân vãn” là một trong những bài mượn cảnh mùa xuân, diễn đạt một cách sâu sắc trình độ tâm linh vút cao của Ngài:

                    XUÂN VÃN

                    Niên thiếu hà tằng liễu sắc không,

                    Nhất xuân tâm sự bách hoa trung.

                    Như kim khám phá Ðông hoàng diện,

                    Thiền bản, bồ đoàn khán trụy hồng.


                    Hòa thượng Trúc Lâm dịch:

                    CUỐI XUÂN


                    Thuở bé chưa từng rõ sắc không,

                    Xuân về hoa nở rộn trong lòng.

                    Chúa Xuân nay bị ta khám phá,

                    Thiền bản, bồ đoàn, ngắm cánh hồng.


                    Bài thơ tứ tuyệt ngắn ngủi nhưng bao hàm cả hai giai đoạn đời Ngài: lúc còn bé chưa biết đường tu và khi đã là vị Thiền Sư đạt đạo.

                    “Thuở bé chưa từng rõ sắc không

                    Xuân về hoa nở rộn trong lòng”

                    Thuở bé là lúc còn non tuổi đời, cũng là khi còn ấu thơ về đạo lý. Nhân một ngày xuân đi dạo trong vườn thượng uyển, Thái Tử thấy trăm hoa đua nở tỏa hương ngào ngạt. Chưa thấu hiểu lý Bát Nhã, chưa rõ thể tánh không của các pháp, Thái Tử ngỡ thân tâm cảnh đều thật có. Ý thức chấp ngã chấp pháp mạnh mẽ, nhất là trong điều kiện thuận lợi về vật chất, Ngài làm sao tránh khỏi rộn ràng xao xuyến khi thấy cảnh xuân về? Và đây hầu như là tâm trạng chung của con người, nhất là những ai có tâm hồn nghệ sĩ. Nhà thơ Ðinh Hùng nhìn xuân sang mà nhớ hương người xưa:
                    Xuân nào như xuân mới?
                    Hương nào như hương xưa?
                    Lòng chàng không có tuổi
                    Duyên chàng se tình cờ.


                    hay J. Leiba nói thay cô gái tuổi trăng tròn:
                    Em nhớ năm em lên mười lăm,
                    Cũng ngày đông cuối sắp sang xuân.
                    Mừng xuân, em thấy tim hồi hộp,
                    Nhìn cái xuân sang khác mọi lần.


                    Tập khí của chúng ta là dính mắc với trần cảnh, loạn động theo các duyên bên ngoài. Từ đó tạo nghiệp, quẩn quanh trong sáu nẻo luân hồi. Ðức Phật dạy, chính sáu căn là đầu mối của phiền não sinnh tử, do tiếp xúc với sáu trần mà khởi tâm phân biệt. Nhưng sáu căn cũng là nguồn gốc của Niết bàn, khi thấy nghe hay biết tất cả các pháp mà vẫn an nhiên tự tại.

                    Thời điểm chợt nhận ra tánh giác thường hằng của chính mình là khoảnh khắc diệu thường, ngàn năm không dễ có. Những bậc đạt đạo dùng rất nhiều mỹ từ tạm đặt tên cho tánh giác sẵn đủ ấy, vì thật sự nó không có tên, cũng không thể dùng ngôn từ diễn tả. Ở đây, Sơ Tổ Ðiều Ngự gọi là Chúa Xuân.

                    Chúa Xuân nay bị ta khám phá”.

                    Thật ra, Chúa Xuân không lẫn tránh, không giấu mặt, cũng không phải ở đâu xa. Chỉ vì vọng thức che lấp nên không nhận ra tánh giác lúc nào cũng sáng ngời.
                    Mai Hoa Ni đời Tống viết bài thơ Ngộ đạo như sau:
                    Tìm Xuân, chẳng thấy bóng xuân sang,
                    Giày rơm giẫm nát đỉnh mây ngàn.
                    Trở về chợt ngửi hương mai ngát,
                    Xuân ở đầu cành đã chứa chan.
                    (Ðỗ Tùng Bách dịch)


                    Một đời lặn lội, mòn mỏi những bước chân giẫm nát cỏ cây trên đỉnh núi mây phủ, thế mà vẫn chưa tìm thấy mùa xuân. Chính vì ý tưởng “tìm xuân” nên xuân không thể hiện. Chúa Xuân không ở bên ngoài, không phải là đối tượng của sự tìm cầu, mà chính là mình - con người bất sanh bất diệt xưa nay. Sực tỉnh xoay trở về chính mình, ta mới nhận ra, quả thật xuân đang trùm khắp vạn hữu, mai đang tỏa ngát mùi hương.!
                    Sơ Tổ của chúng ta không những đã trở về, đã khám phá Chúa Xuân, Ngài còn trọn vẹn sống cùng mùa Xuân miên viễn:

                    “Thiền bản, bồ đoàn, ngắm cánh hồng”.

                    Thiền bản là chiếc chõng hay giường nhỏ, bồ đoàn là chiếc gối tròn để ngồi. Ðây là hai dụng cụ sử dụng khi tọa thiền. Giường hay chõng thiền còn ám chỉ chân tánh hay bản tâm của mỗi người. Ngồi trên giường Thiền nghĩa là hằng sống cùng bản tâm sẵn đủ. Bản tâm thường tịch nhưng thường tri, luôn lặng lẽ mà luôn chiếu sáng. Ðịnh của bản tâm không trụ không xả, không nhập không xuất nên là thường định, đại định. Tinh thần Bồ tát Ðại thừa không bỏ huyễn cầu chơn, không bỏ mê về ngộ, không bỏ trần gian thủ chứng Niết bàn.

                    Trong các cảnh vô thường sinh diệt, các bậc đạt đạo nhận ra và sống bằng thể tánh chân thường bất sinh, nên có cái nhìn thẩm thấu vào bản chất của các pháp. Do vậy, các Ngài tự tại anh nhiên trước sự biến đổi của vũ trụ vạn hữu, nên nói “ngồi trên giường Thiền ngắm từng cánh hoa rụng trong một chiều xuân vãn”.

                    Cùng một cảnh xuân nhưng lúc mê thì tâm loạn động, dính mắc theo cảnh, khi ngộ thì an nhiên nhìn mọi sự đổi dời. Xuân đời đến rồi đi, hoa theo xuân nở rồi tàn, nhưng Chúa Xuân mãi hiện hữu, siêu vượt thời - không.

                    Mùa Xuân miên viễn ấy không ở đâu xa, không từ bên ngoài đến, mà ở ngay đương xứ - tại đây và bây giờ.

                    Cầu chúc tất cả chúng ta, nhân mùa xuân đến, nhận ra Chúa - Xuân - tự - tâm của chính mình, đồng thời chan rải hương xuân đến khắp mọi người.

                    Thiền thất Viên Giác
                    Người gửi bài: Anh Huy
                    ----------------------------

                    Cái đẹp của sa mạc là một cái giếng nó ẩn dấu nơi đó.

                    Comment

                    • #25

                      XUÂN THIỀN


                      Nói về phương diện tục đế, ở pháp sinh diệt vô thường nơi thế gian thì chúng ta không thể chối bỏ cuộc sống hiện tại. Học thiền không có nghĩa là học trên lý luận siêu hình, không ý thức gì đến sinh hoạt đời thường. Sự giải thoát của đạo Phật không phải vượt thoát khỏi thế gian để mưu cầu hạnh phúc, mà là “cư trần bất nhiễm trần”, tùy duyên mà thọ dụng.

                      Xuất thế gian là ở ngay thế gian vô thường nhưng tâm mình không bị vướng nhiễm nơi các pháp, làm hiển hiện cái bất sanh bất diệt thường hằng. Ðạo lý cũng nằm ngay cuộc sống đời thường chứ không phải cách ly với nhân sinh xã hội, thiếu hiểu biết về phong tục tập quán, đất nước con người… Nhà Phật dùng hình tượng hoa sen để nói đến đức tính vô nhiễm này. Mùa xuân về, khí trời ấm áp, muôn hoa đua nở làm cho lòng người cảm thấy rạo rực. Ðối với người học đạo, chúng ta vẫn đón tết vui xuân như mọi người nhưng bằng một tâm chánh niệm, tỉnh thức, thâm trầm và đạo vị.


                      Nắng xuân tràn khắp muôn nơi
                      Chồi non nảy lộc đất trời bình an
                      Líu lo chim hót trên cành
                      Hân hoan mừng đón khí lành ngày xuân.”



                      Mỗi mùa xuân đến, mọi người mọi vật, cỏ cây hoa lá đều thay áo mới. Nhưng lẽ thực, trong lòng sự vật luôn chuyển đổi để làm mới. Mỗi năm trôi qua, chúng ta xích gần đến cái chết. Vì vậy, tuy nói vạn vật hồi sinh nhưng thật ra, vạn vật đang từ từ đi đến chỗ chết. Chết để rồi chuẩn bị bắt đầu cho một cuộc sống mới. Mùa đông giá buốt làm cho cây cỏ trơ cành xơ xác, để rồi khi xuân về, khí trời ấm lại, chiếu những tia nắng đầy sức sống lên cỏ cây đang đâm chồi nảy lộc, xum xuê tươi nhuận hương sắc cung hiến cho đời. Như vậy, sống rồi chết, chết để tiếp tục sống, thì phải chăng, chết là một sự thật mầu nhiệm?

                      Mùa xuân là mùa của niềm tin và hy vọng. Từ thành thị đến thôn quê, ai ai cũng tưng bừng hớn hở, dù bận công việc gì cũng gác lại để sửa soạn nhà cửa, trang thiết bàn thờ ông bà tổ tiên, mua sắm bánh trái để chuẩn bị đón một cái tết cổ truyền đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc của người dân Á Ðông. Tết cũng là dịp để mọi người quây quần bên nhau, sum họp sau những ngày làm ăn xa cách, trở về với nguồn cội, ông bà tổ tiên, với gia đình, tìm lại chút hơi ấm của tình thương và hạnh phúc. Cho nên, những gì thuộc về phong tục tập quán, quốc hồn quốc túy của người Việt, từ tư tưởng cho đến văn hóa, tiếng nói, chữ viết… tất cả chúng ta phải biết trân trọng, gìn giữ, định hình và cổ xúy để phát triển, không bị đồng hóa bởi các thế lực ngoại lai mà mất đi tính dân tộc. Vì vậy, ngày tết cổ truyền là dịp để chúng ta giữ gìn và bảo tồn những nét đẹp mang giá trị văn hóa ấy mà ông cha ta đã xây đắp từ lâu đời.
                      Nét đẹp của xuân đời, cũng là nét thẩm mỹ siêu nhiên của xuân đạo. Bởi thế mà từ xưa, nhân dân ta đã có truyền thống đi chùa lễ Phật đầu năm, dần dần trở thành một nét đẹp không thể thiếu trong những ngày đầu xuân. Mùa xuân của đất trời luôn gắn liền với mùa xuân của tâm linh, tạo nên sự hài hòa giữa đời và đạo. Ðầu năm đến chùa, thưởng ngoạn phong cảnh trang nghiêm chốn thiền môn, nghe quý Thầy giảng pháp, chúng ta hiểu biết thêm về đạo lý, từ đó áp dụng vào cuộc sống thường ngày để trong năm mới, chúng ta có được nhiều sự an lạc và thảnh thơi hơn. Ðó là những món quà tinh thần, những lời chúc đầu xuân tốt đẹp và có ý nghĩa.

                      Mỗi năm qua đi, tuổi già lại đến, tóc thêm hoa râm, mạng sống giảm dần. Nhìn thấy một đứa trẻ lớn lên thì biết rằng mình cũng đang già đi. Hoa nở rồi hoa tàn, xuân năm trước qua đi, xuân năm sau lại đến. Nên mới nói:


                      Xuân đang tới nghĩa là xuân đang qua

                      Trăng còn non nghĩa là trăng sắp già.”


                      Ðây là quy luật vô thường tất yếu của cuộc sống. Hiểu như vậy, chúng ta phải trân quý từng tấc bóng thời gian để học đạo tu hành, chuyển hóa đời sống mình ngày càng tốt đẹp hơn. Biết được cuộc đời vốn không thật, vô thường, duyên sinh, huyễn mộng thì chúng ta phải xây đắp cuộc đời mình trong đạo đức. Ðạo đức vô hình vô ảnh nhưng có sức chi phối hoàn cảnh xung quanh. Ðiều đáng sợ nhất trên cuộc đời là sống đời xấu ác, hư dở. Cho nên, là người phật tử đến chùa học đạo thì mỗi ngày, mỗi tháng, mỗi năm chúng ta phải tiến bộ, thăng hoa trên con đường tâm linh đạo đức.

                      Suốt một đời, chúng ta từng chứng kiến bao cảnh sanh diệt đổi dời, bãi bể nương dâu, muôn vật chuyển dịch, vô thường biến đổi. Thiền sư Thiên Tùng nhân dịp xuân về đã làm một bài kệ:

                      Sáng nay đều nói thêm một tuổi

                      Tôi bảo ngày này bớt một năm.
                      Thêm bớt lại qua số khôn tính
                      Chỉ cần dứt sạch duyên thế gian.
                      Cốt là biết được trong duyên chủ
                      Trăm ngàn ức kiếp thường an nhiên.”


                      Mùa xuân, các thiền sư hay làm kệ thơ, cũng trào dâng xúc cảm nhưng không đắm nhiễm như người đời. Các ngài làm thơ bằng ánh sáng trí tuệ để soi sáng nhân tình thế gian, nhắc nhở mọi người đón xuân trong tỉnh thức. Tùy duyên tùy tục, các ngài vẫn đón xuân vui tết, ở trong thế gian sinh diệt nhưng vượt lên, tự tại siêu nhiên, không vướng bận trần gian huyễn mộng. Ngày đầu năm, mọi người thường chúc nhau thêm một tuổi, cũng có nghĩa là sự sống bị bớt lại một năm. Cho nên, khi ý thức rõ cuộc sống là vô thường thì điều cần thiết nhất làm sao để dứt sạch các duyên thế gian, sống tùy thuận theo dòng đời mà không vướng nhiễm nơi các duyên, sống ngay trong muôn cảnh dàn trải trước mắt mà nơi bản thân mình biết được người chủ trong các duyên. Phải tin chắc rằng ngay trong thân ngũ uẩn sinh diệt này có con người chơn thật thường hằng, bất sanh bất diệt để không phải hướng ngoại tìm cầu nơi khác. Một khi đã biết được “chủ trong duyên”, chúng ta cảm thấy vững vàng trong cuộc đời này, dầu trải trăm ngàn ức kiếp vẫn an nhiên tự tại, khoác áo độ sanh. Có như vậy, dù thêm một tuổi hay bớt một tuổi thì đạo lý trong chúng ta vẫn tràn trề sức sống của sự tỉnh giác.
                      Biết được chủ thì không bị trôi lăn, dính mắc theo trần cảnh. Các ngài muốn chúng ta thưởng xuân, xem hoa, nhìn muôn vật bằng đôi mắt Thiền. “Ðối cảnh vô tâm chớ hỏi Thiền”. Ðối với tất cả cảnh đều vô tâm phân biệt, vô tâm sinh diệt, thản nhiên trước mọi hoàn cảnh, sáu căn tiếp xúc sáu trần đều biết rõ mà không sinh tâm khởi niệm. Có như vậy, tâm chúng ta sẽ an lạc và thanh nhàn. Dưới mắt các vị Thiền sư thì núi sông, khe suối, ao hồ… đâu đâu cũng là một mùa xuân, một màu xuân, một chất xuân miên viễn. Tâm hồn các ngài lúc nào cũng vui vẻ, thanh thoát trong ánh sáng tỉnh thức, xuân đời xuân đạo hòa nhập thành một thể nhất như. Các ngài muốn chúng ta trở về nguồn, tức là trở về với mùa xuân bất diệt nguyên sơ tự thuở nào. Từ vô thỉ kiếp xa xưa, chúng ta ở trên mảnh đất bình an nơi quê nhà nhưng quên mất nguồn cội mà lang bạt khắp nơi, ba cõi sáu đường, trôi lăn trong sinh tử. Nhờ giáo lý của Ðức Phật soi đường, chúng ta tự trở về nguồn để thừa hưởng gia tài đó, về để uống ngụm nước đầu nguồn trong sạch. Ðó là ý nghĩa tu hành. Chúng ta ý thức thế gian sinh diệt, nhưng nơi sinh diệt đó mà khuếch đại tự do, tùy duyên hóa đạo, sống thong dong thoải mái giữa dòng chảy của cuộc đời.

                      Trong giai thoại nhà Thiền có kể câu chuyện “Linh Vân kiến đào ngộ đạo”. Thiền sư Linh Vân trong hội của ngài Quy Sơn Linh Hựu, đã nhiều năm tu hành mà chưa ngộ đạo. Mộït hôm nhân thấy hoa đào nở, chợt hoát nhiên đại ngộ, ngài liền làm bài kệ rằng:


                      Tam thập niên lai tầm kiếm khách

                      Kỷ hồi lạc diệp hựu trừu chi
                      Tự tòng nhất kiến đào hoa hậu
                      Trực chí như kim bất cánh nghi.”


                      Tạm dịch:

                      Ba chục năm nay tìm kiếm khách

                      Bao hồi lá rụng với cành trơ
                      Từ khi chợt thấy hoa đào nở
                      Mãi đến hôm nay hết bóng ngờ.”


                      Ở Trung Hoa, mùa xuân có hoa đào nở. Thiền sư Linh Vân tu hành ba mươi năm, đi tìm sự thật mãi không ra, chưa biết được người chủ xây ngôi nhà này. Bỗng nhiên một hôm nhìn thấy hoa đào nở, chợt nhận ra Chúa Xuân hiển hiện trọn vẹn nguyên hình tự thuở ban sơ cho đến bây giờ, diễn tả một thực tại vô ngôn, không còn nghi ngờ về ông chủ của chính mình, giáp mặt với sự thật ngàn đời.

                      Chúng ta học đạo, bước đầu tiên là dứt trừ dần những nghiệp ác nơi thân khẩu ý, sống đời hiền lương đạo đức. Kế tiếp là dứt trừ những phiền não tham, sân, si nơi tâm thức. Sau đó mới lặn sâu vào công phu tu tập để khám phá ra ông chủ thật sự nơi mình. Người đời không ý thức về việc tu hành, tết đến chỉ lo say sưa trong men rượu, chìm đắm trong ngũ dục, không biết đạo lý, dần dần sa đọa. Còn chúng ta là người phật tử phải biết sống đời lành mạnh, xây đắp cuộc đời bằng những hạnh lành, tiến tu đạo nghiệp trên con đường giác ngộ giải thoát.

                      Cầu chúc tất cả chúng ta hưởng một mùa xuân an lạc miên viễn trong ánh sáng của chánh pháp, nhận ra được “một cành mai” mãi mãi không bao giờ tàn phai trong đời thường.

                      Thích Thông Huệ - Thiền Thất Viên Giác
                      Tp. Nha TrangXuân Canh Dần 2010.
                      ----------------------------

                      Cái đẹp của sa mạc là một cái giếng nó ẩn dấu nơi đó.

                      Comment

                      • #26

                        Kiếp HỔ Vinh Và Nhục



                        Hổ vốn ở tận rừng sâu nhưng mối liên quan đến con người thì ít dã thú nào bì kịp. Vì Hổ đồng nghĩa với sức mạnh, với bạo lực, bạo quyền. Ở nơi rừng rậm thì bạo quyền làm nên chức tước. Sư tử nguyên là Chúa Sơn lâm, nhưng nòi giống “hào kiệt” này đã dần “hao kiệt”, Hổ là cấp phó tự đề bạt mình lên cấp trưởng đương nhiên. Con người hồng hoang xưa vốn là “Con” nên cũng khát khao những thứ bạo lực và “vinh quang” ấy lắm.

                        Chúa Sơn lâm rất kỵ văn minh chẳng thích gần người, nhưng con người cứ sùng kính đưa Hổ vào đời sống của mình, tôn là Ông Hổ hay Ông Ba mươi (Mối hữu nghị này xem ra cũng là hữu nghị một chiều). Khát khao sinh ra sợ sệt và sùng bái. Sáng dậy, thấy quanh nhà có vết chân “lạ” của Hổ thì xì xào “Đêm qua Ông về , Ngài về!” (mặc dù “Ngài” về để bắt lợn!). Tên của Hổ chỉ dùng vào việc tôn kính, tướng võ oai phong gọi là Hổ tướng, cha con cùng tài giỏi là “Hổ phụ sinh Hổ tử”….

                        Nhưng ở đời, cao nhân tất hữu cao nhân trị (huống chi “cao Hổ”). Con người dần văn minh lên, có vũ khí, có mưu mẹo để săn bắt Hổ thì danh tiếng xưa kia lại trở thành đại họa cho Chúa Sơn lâm. Bộ da Hổ rất đẹp rất oai thì phải lột da làm thảm trải nơi trướng gấm. Xương Hổ tạo nên sự khỏe mạnh thì phải nấu thành cao. Răng Hổ thì phải vặn ra, đem mài từng chút làm thuốc chữa đau bụng. Vuốt hổ bị bóc ra thành vật trang sức trước ngực những chàng trai muốn bộc lộ tính dũng mãnh của mình. Kể sao hết nỗi tang thương !. Sức mạnh hoang dã là thứ tốt nhất để con người lợi dụng.

                        Thân đã bại thì danh cũng liệt. Hổ chẳng còn uy vũ thiêng liêng gì, “Chúa” nay bị nhốt vào chuồng làm cảnh để thu tiền du khách. Xác Hổ thì bỏ hết ruột gan, nhồi bông bày nơi khảo cổ, cho loài người chiêm ngưỡng như chiêm ngưỡng một trong những loài “tiền bối” của mình. Cái gì xấu thì dành cho Hổ, người ta chửi rủa nhau “Ăn như Hổ đói”, “Đồ Hổ vồ”. Hổ thành biểu tượng cho sức mạnh tàn ác, luật rừng dã man. Ngôn ngữ Việt nam càng làm mất danh dự cho loài Hổ, nào là Hổ thẹn, đứt thần kinh Xấu Hổ. Trong văn chương, viết “Hổ không biết Hổ” là mượn tên loài Hổ chửi bọn người tham tàn vô sỉ . Nếu hiểu tiếng Việt và có thần kinh xấu hổ thì chắc Hổ phải tủi hổ, chui xuống lỗ nẻ mà chết. Nhưng cũng may cho Hổ, không chết, vì bạo lực và sự hổ thẹn nào có mấy khi song hành !

                        Nhưng nỗi bất hạnh nhất của Hổ phải kể dến trò đấu Hổ quyền. Cho Hổ đấu với voi, nhưng “Voi được đi lại tự do, còn hổ bị buộc bằng sợi xích cột vào cái cọc đóng chắc chắn ở giữa đấu trường và bị cắt bỏ nanh vuốt, cốt biến Hổ thành vật tế thần cho voi tập luyện. ” (!).(Đây là kiểu “Trói tay đối thủ rồi thách đấu” – Bùi Tín).

                        Theo bài Hổ Quyền trong cuốn “Quần thể di tích Huế“, tác giả Phan Thuận An, NXB Trẻ 2007, trang 293-299, tả cảnh một trận Hổ quyền dưới triều Thành Thái như sau:
                        Voi cái bước vào đấu trường có vẻ hiên ngang, đi qua đi lại trước mặt cọp không một chút sợ hãi, vua Thành Thái khen: “con này can đảm lắm”. Nhưng bỗng chốc, cọp nhảy lên trán voi, voi hất mạnh, cọp rơi xuống. Cọp lại nhảy lên bấu vào chỗ cũ. Voi tức giận, rống lên, vụt chạy đến dùng đầu đẩy mạnh cọp vào thành đấu trường, dùng sức mạnh ngàn cân vừa húc, vừa ép thật sát. Khi voi ngẩng đầu lên, cọp té xuống đất, voi dùng chân chà cọp đến chết…

                        Trận Hổ quyền đẫm máu nhất là vào năm 1750, ở cồn Dã Viên trên sông Hương, lần lượt 40 con voi đã giết chết 18 con Hổ một cách khủng khiếp tương tự như thế.

                        Âu cũng là “sinh ư nghệ tử ư nghệ”, không cậy mình có sức mạnh vô địch làm Chúa Sơn lâm, mặc sức chén thịt hươu nai, trâu bò thì Hổ đâu có vinh dự chọn làm vật tế thần và bị đẩy vào cảnh thê lương như vậy? Thật rõ oan oan tương báo.

                        Ba mươi Tết CANH DẦN này, theo phong tục, TRÂU phải bàn giao quyền cho HỔ, HỔ tiếp quản quyền bính chi phối thế gian. Lòng ta không khỏi bồi hồi. nghĩ về con HỔ, để vừa ca ngợi, vừa sợ, vừa ghét, vừa thương. Trời sinh cái kiếp CỌP sao đa đoan, lúc vinh là thế mà lúc nhục là thế !.



                        HỔ lên ngôi thì TRÂU phải tán loạn mà chạy mất dép (mất guốc chứ!). HỔ và BÁO liệu có là cặp bài trùng? HỔ lên ngôi thì họ nhà BÁO ra sao? Tôi cứ nghĩ lan man vậy mà nên mấy Câu đối Tết nôm na này, để cùng bạn bè dăm ba phút vui vui trong ngày Tết.

                        Hà Sĩ Phu

                        Câu đối Tết con HỔ

                        Câu đối 1: (Cuộc Đổi mới của Trâu và Hổ)

                        TRÂU men Lề phải vô chuồng cũ !

                        HỔ cứ Luật rừng giữ thói xưa !

                        Câu đối 2: (Quan hệ Trâu và Cọp)

                        TRÂU theo lề phải… vô chuồng CỌP !

                        CỌP cứ luật rừng… chén thịt TRÂU !


                        Câu đối 3: (Về 2 chữ CANH-DẦN)

                        CANH CÁNH những lo niềm nước mất !

                        DẦN DẦN phải gỡ nỗi dân đau !

                        Câu đối 4: (Chơi chữ Hổ-Báo-Hùm-Beo)

                        Rỡn bác Hổ, mình ra tờ nhật Báo!

                        Vuốt râu Hùm, ta tạo tấm da Beo!

                        (Tấm da Beo lốm đốm như Ác với Thiện, như Phải và Trái xen nhau )

                        Câu đối 5: ( Quan hệ tay tư giữa Trâu-Hổ-Cuội-Bờm)

                        BỜM cưỡi lưng TRÂU, sừng vênh vểnh ra chiều tự đắc !

                        CUỘI mang tính HỔ , vuốt thập thò coi bộ hiền khô !

                        Câu đối 6: (Vịnh nước cờ BỐN TỐT sang sông)

                        Đêm ba mươi, pháo nổ ngang trời,
                        ông ba mươi tiếp quản,
                        dân thấp thỏm,TRÂU chạy đằng TRÂU!

                        Mẹo bốn tốt, cờ tàn hết nước,

                        địch bốn tốt sang sông ,


                        tướng khốn cùng, HỔ không biết HỔ?


                        (Dân gian còn gọi Hổ là “ông Ba mươi”. Dân chơi Cờ tướng có câu : “Cờ tàn

                        đấm tốt” và “Tốt nhập cung, tướng khốn cùng”)


                        Mời đối Tết Canh Dần:

                        Mời đối 1:

                        Đêm đến tàn CANH, DẦN sẽ sáng !?

                        Mời đối 2 Tặng những nhà BÁO còn đau đáu một niềm HỔ thẹn)

                        HỔ-BÁO tương phùng, năm của HỔ hãy là năm của BÁO !

                        Mời đối 3:

                        NHÂN quyền đâu phải HỔ quyền,

                        trói đối thủ, lại giữ quyền thách đấu ?


                        (Hổ quyền có 4 nghĩa khác nhau: 虎圈Chuồng nuôi hổ,虎圈 cuộc đấu voi-hổ,

                        虎拳thế võ bắt chước hổ, 虎權quyền của hổ. Về cuộc đấu Hổ quyền xin xem bài viết bên trên)


                        Cung chúc Tân Xuân

                        Hà Sĩ Phu
                        Đã chỉnh sửa bởi ThienQuang; 08-02-2010, 02:14 PM.


                        T_Q
















                        Comment

                        • #27

                          Những điều thú vị về hổ

                          Nhờ những gân chân cực khỏe, hổ có thể đứng vững trên mặt đất ngay cả khi đã chết. Chúng hay liếm vết thương vì nước bọt có khả năng khử trùng.
                          Ảnh: listfied.com.

                          Hổ là động vật lớn nhất trong động vật họ mèo. Trong môi trường nuôi nhốt hổ có thể sống tới 20 năm, nhưng trong môi trường hoang dã tuổi thọ của chúng dao động từ 10 tới 15 năm.

                          Nước dãi của hổ có khả năng khử trùng. Đó là nguyên nhân khiến chúng hay liếm vết thương.

                          Gân ở chân hổ rất khỏe. Nhiều thợ săn kể rằng, sau khi bị bắn chết, nhiều con hổ vẫn đứng sững chứ không ngã nhào xuống đất.

                          Hổ trưởng thành thường sống ổn định trong một khu vực. Lãnh thổ của một con đực có thể rộng tới 160 km vuông và bao trùm lãnh thổ của nhiều con cái. Chúng đánh dấu lãnh thổ bằng cách tiểu tiện vào các bụi cây và gốc cây, cào sâu vào các thân cây. Hổ cũng dùng phân để đánh dấu phạm vi lãnh thổ. Cứ vài ngày chúng đi vòng quanh lãnh thổ một lần.

                          Mùi phân và nước tiểu của các con hổ không giống nhau. Chỉ có chúng mới có thể phân biệt được mùi nước tiểu và phân của đồng loại.

                          Mỗi con hổ có một kiểu sọc vằn riêng, giống như dấu vân tay ở người. Những vết sọc giúp chúng ngụy trang tốt trong các đám cỏ và cây bụi thấp.

                          Thính giác là giác quan phát triển nhất của hổ.

                          Nếu tính trung bình thì cứ 20 lần bắt mồi hổ chỉ thành công một lần.

                          Hổ thích ăn lợn, nai và trâu. Nhưng chúng cũng sẵn sàng bắt những con vật nhỏ hơn như cá và thỏ. Hổ có thể nhịn ăn trong 2-3 ngày.

                          Một con hổ có kích thước trung bình có thể ăn tới 27 kg thịt mỗi bữa.

                          Răng nanh của hổ có thể dài tới 7,5 cm. Nhờ đó chúng có thể gặm tới xương mọi động vật trên trái đất.

                          Sau khi đánh chén no, hổ thường giấu phần còn lại của con mồi để tránh sự dòm ngó của những động vật ăn xác thối. Chúng sẽ ăn nốt phần thịt đó vào bữa tiếp theo.

                          Thời gian ngủ tối đa của hổ trong ngày là 18 giờ.

                          Hổ biết bơi và chúng thường làm mát cơ thể bằng cách ngâm mình dưới nước.

                          Ở tuổi thứ ba hổ bắt đầu giao phối và sinh sản. Một con đực có thể giao phối 6 lần/giờ. Hổ cái mang thai trong 102-106 ngày và thường đẻ 2-3 con mỗi lứa. Tỷ lệ tử vong ở hổ con tương đối cao. Khi chào đời hổ con không có khả năng nhìn.

                          Trọng lượng của hổ con tăng thêm trung bình 100 gram mỗi ngày.

                          Giới khoa học tin rằng những đốm trắng ở mặt sau của tai hổ là dấu hiệu chỉ dẫn để hổ con có thể bám theo mẹ.

                          Hổ con bắt đầu săn mồi sau khi được 18 tuần tuổi. Chúng sống cùng mẹ trong 2-3 năm.

                          Minh Long
                          Hãy hướng về phía mặt trời mọc bóng tối sẽ khuất sau lưng anh.

                          Comment

                          • #28

                            Du Xuân xem hổ Bình Dương

                            Du Xuân xem hổ Bình Dương


                            Lao Động Xuân 2010 - 08/02/2010



                            Du khách tới xem hổ tại Bình Dương.

                            (Xuân 2010) - 2010 là năm Canh Dần, chúng tôi du Xuân xem hổ và biết được chuyện nuôi hổ cũng không hề đơn giản và cũng không kém phần lý thú. Theo thống kê, hiện nay ở Việt Nam ta chỉ còn khoảng 100 con hổ sống trong môi trường tự nhiên. Thế nhưng, ở Bình Dương việc nuôi hổ và cho sinh sản thành bầy đàn quả là một kỳ diệu.


                            Xem vuốt râu hổ


                            Nghe tiếng huýt của ông, 9 con hổ ở trong hang chạy ra. Ông ra hiệu lệnh, các con hổ bắt đầu xếp hàng, châu đầu ra hàng rào sắt. Ông là Đoàn Văn Bon là một nông dân thứ thiệt ở Bến Tre, nhưng rất thuần thục chuyện nuôi hổ 7-8 năm nay tại khu du lịch (KDL) Thanh Cảnh (thị trấn Lái Thiêu, huyện Thuận An, Bình Dương).

                            Đàn hổ như người bạn thân của ông. Hàng ngày, đến giờ ăn chỉ cần ông hú một tiếng, cả đàn đã chạy ra.

                            Hôm chúng tôi ghé qua, thật ngạc nhiên, những con hổ hung dữ vốn nổi tiếng là chúa sơn lâm nhưng lại ngoan ngoãn để ông vuốt râu, cho ăn. Ông Bon cho biết, dường như các con hổ coi ông là bạn, là bà mụ nuôi nên mỗi lần ra hiệu lệnh chúng đều nghe theo. Trong nhiều năm qua, ông chưa thấy chúng tỏ ra hung dữ với mình, trừ khi những người lạ đến có thể chúng gầm vài tiếng rồi chạy vào hang.



                            KDL Đại Nam phải chú ý tăng cường thêm kính và lưới sắt bảo vệ người xem thú.

                            Ông Bon thổ lộ: "Trong truyền thuyết, râu hổ rất độc. Nếu dùng râu khuấy vào ly nước uống trúng độc sẽ chết. Râu hổ được những người dân tộc dùng làm mũi tên săn bắt thú". Nói đến đây, ông Bon kêu ngay đàn hổ ra cửa sắt để chúng tôi xem ông nhổ râu ngon lành. Thấy ông thò tay vào cửa sắt để nhổ râu, chúng tôi hoảng sợ nhưng rất nhẹ nhàng một chiếc râu hổ được ông dứt ra.

                            Chúng tôi thấy, khu vực nuôi thú của KDL Thanh Cảnh được thiết kế như một rạp xiếc. Bên trong chuồng có nhiều hang động tạo chỗ hổ nghỉ ngơi. Cả chuồng lớn rộng hàng ngàn mét vuông là nơi để hổ dạo chơi. Trên tường rào được vẽ nhiều bức tranh về rừng, thú và những hang hầm đều thiết kế nhân tạo và bao bọc một lớp sắt bên ngoài rất an toàn.

                            Theo ông Bon, để nuôi các con hổ trưởng thành và nghe lời người nuôi là một kỳ công. Mỗi ngày tốn cho mỗi con hàng chục kilôgram thịt bò tươi, có ngày đổi món gà… nên những con hổ ở Thanh Cảnh rất to béo, có con nặng hon 300kg. Ngoài việc cho ăn, phải dọn dẹp vệ sinh, bảo vệ môi trường để đàn hổ khoẻ mạnh và cho sinh sản được. Chăm sóc có chủ ý cho nên cả đàn hổ khá thân thiện với con người. Hổ con rất dễ thương và hiền lành, du khách có thể gần nó chụp hình.

                            Ông thổ lộ, đặc tính của hổ là rất vệ sinh. Hổ "đi vệ sinh" cũng rất nghiêm túc có nơi, có chỗ chứ không bừa bãi. Hổ ăn uống rất văn minh. Thức ăn bỏ vào chuồng, thì thứ tự con lớn dùng trước, con nhỏ dùng sau, cứ thế mà ăn, tuyệt đối không giành của đồng loại, hổ không ăn da, mỡ cũng như các bộ phận ngũ tạng khác.

                            Hổ phục vụ du lịch

                            Nhắc đến chuyện hổ được huấn luyện thân thiết với con người như ông Bon ở Thanh Cảnh, chúng tôi biết KDL Đại Nam có vườn thú mở cũng rất lý thú. KDL Đại Nam đang nuôi 18 con hổ phục vụ tham quan du lịch là nơi nuôi thú theo mô hình bán hoang dã. Tuy nhiên, sau sự cố đáng tiếc một con hổ vồ chết nhân viên trồng cây xanh, KDL Đại Nam phải chú ý tăng cường thêm kính và lưới sắt bảo vệ người xem thú.

                            Ông Dương Thành Phi - Giám đốc vườn thú Đại Nam - cho biết, hổ là loài thú dữ, lớn con, chạy và phóng nhanh, có sức khoẻ phi thường để săn mồi, nhưng sống trong môi trường nuôi bán hoang dã chúng bớt hoang dại hẳn. Thấy ông Phi và chúng tôi xuất hiện, các con hổ Đại Nam chạy ra đùa giỡn, chạy nhảy như không có chuyện gì xảy ra.




                            Hổ được nuôi trong điều kiện bán thiên nhiên, kết hợp với việc chăm sóc có chủ ý cho nên khá thân thiện với con người.

                            Ông Phi cho hay, hổ Đông Dương có bộ lông vằn vện được tô điểm bởi ba màu đen, nâu và xám. Đôi khi người ta cũng còn tìm thấy loài hổ với bộ lông toàn màu trắng mà người Việt gọi là bạch hổ hay loài hổ với bộ lông toàn màu đen ta gọi là hắc hổ. Đại Nam đang nuôi hai con bạch hổ nhập về từ Mexico sắp sinh sản lứa đầu tiên.

                            Mùa chịu đực của loài hổ thường từ tháng 12 đến tháng 3, hổ cái mỗi lứa sinh khoảng 2 đến 4 hổ con. Ông nêu kinh nghiệm: Loài hổ không theo chế độ đa thê như sư tử, chỉ sống một vợ, một chồng chung tình, cho đến ngày "đầu bạc răng long". Việc nuôi hổ sinh sản là một chuyện không khó nhưng tốn rất nhiều công sức và quá trình chăm sóc.

                            Sau nhiều năm nghiên cứu, năm 2010, Vườn thú Đại Nam chuẩn bị đón chào thêm lứa hổ con sắp ra đời. Ông Phi vui mừng cho biết: Chuyện nuôi dưỡng và cho hổ sinh sản trong điều kiện nuôi nhốt bán hoang dã đã thành công, đến nay chúng tôi muốn gửi tới những người yêu thiên nhiên, môi trường một tín hiệu đáng mừng: "Từ nay loài hổ, loài động vật quý hiếm thuộc sách Đỏ thế giới sẽ không bị tuyệt chủng tại Việt Nam".

                            Nuôi hổ sinh sản...

                            Chúng tôi đã đến cơ sở của ông Ngô Duy Tân - Giám đốc Công ty TNHH Bia Thái Bình Dương - tại xã Bình An, huyện Dĩ An, tỉnh Bình Dương. Tại đây, tôi đã được ông Tân giới thiệu cơ sở chăn nuôi có một không hai ở Việt Nam. Theo lời ông Tân, năm 2000, có mấy người lạ mặt mang 5 con hổ mới sinh vài ngày tuổi bị liệt 2 chân nài nỉ ông mua. Nhìn 5 con hổ con để trong chiếc giỏ xách như những chú mèo con, ông thấy xót quá nên quyết định mua 5 con hổ này.

                            Với chút ít kinh nghiệm học được từ những năm ở quân ngũ, ông Tân đã dành nhiều công sức chăm sóc bằng tiết chim cút, đàn hổ mới sống sót. Nhờ vậy mà 5 con hổ hồi phục dần và sống mạnh khoẻ. Tháng 7.2003, ông Tân mua và chữa bệnh cho 2 con hổ nữa và cho phối giống. Đến nay, đàn hổ của ông đã sinh sôi tổng cộng được 31 con. Điều ông Tân tự hào là bằng kinh nghiệm dân gian, ông có thể trị được một số bệnh cho hổ và đặc biệt là phối giống để hổ sinh sản khoẻ mạnh.

                            Theo ông Tân, tất cả những con hổ sinh ra đều được Chi cục Kiểm lâm tỉnh Bình Dương kiểm tra và cấp "giấy khai sinh". Bà Kim - vợ ông Tân - cho biết, mỗi ngày các con hổ ăn từ 7-10kg thịt (bò, heo, gà), hổ con thì nuôi bằng sữa tươi và chim cút. Trên diện tích khoảng 10.000m2, chuồng trại xây kiên cố, có khoảng trống cho hổ chạy nhảy săn bắt mồi và ngắm trăng... Có thể nói, đây là cơ sở nuôi hổ thành công quy mô nhất của Việt Nam... Vì vậy mà ông Tân tự hào tuyên bố loài hổ không thể tuyệt chủng ở Việt Nam.

                            Việc nuôi hổ sinh sản là việc làm mới mẻ và rất ít người nuôi hổ sinh sản thành công như ở Bình Dương. Đến nay các con hổ mẹ đã sinh được 5 đợt, mỗi đợt sinh 3- 6 con. Tổng số hổ là 31 con. Ông Tân cho hay, với đà sinh sản như hiện nay, chục năm nữa số hộ nuôi sẽ đạt 364 con. Hổ được nuôi trong điều kiện bán thiên nhiên, kết hợp với việc chăm sóc có chủ ý cho nên khá thân thiện với con người. Hổ con rất dễ thương và hiền lành, du khách có thể ôm hổ chụp hình như những con mèo.

                            Hiện nay, ở Bình Dương có 3 trại nuôi hổ đều cho sinh sản gồm Khu du lịch Đại Nam; Công ty Bia Thái Bình Dương và KDL Thanh Cảnh với đàn hổ tính trong năm 2009 đã là 58 con.

                            Thành công từ mô hình nuôi hổ ở Bình Dương, có thể nói là một bước ngoặt lớn, vì đã có hàng chục mô hình thuần dưỡng, nuôi nhốt hổ nhưng tất cả đều thất bại. Hiện đàn hổ của cả nước theo thống kê tại các khu bảo tồn tự nhiên đang giảm đi từng ngày, từng năm thì chuyện các tư nhân nuôi hổ sinh sản thành bầy đàn ở Bình Dương đã góp phần cứu đàn hổ khỏi bị tuyệt chủng.


                            Trung Thành
                            Đã chỉnh sửa bởi CONHAKO; 09-02-2010, 11:01 PM.
                            ----------------------------

                            Cái đẹp của sa mạc là một cái giếng nó ẩn dấu nơi đó.

                            Comment

                            • #29

                              CON CỌP YÊU QUÝ CỦA TÔI.



                              Tôi nhất đinh đòi thày bu tôi phải cưới Hương cho tôi. Tôi thích nàng,(CopHuong của tôi) tôi yêu nàng và tôi phải lấy nàng cho bằng được. Nếu thày bu tôi không hỏi cưới nàng cho tôi thì tôi sẽ bỏ nhà ra đi, đi giang hồ hay đi theo Việt

                              Minh cho Tây nó bắn tôi lòi ruột ra. Chẳng thà thế chứ sống mà thiếu Hương tôi sống không được. Tôi cũng đã ngỏ ý ấy với nàng và nàng bảo hễ cứ có mai mối bên nhà tôi tới là bên nhà nàng bằng lòng ngay.

                              Tình yêu của tôi đối với Hương nó vĩ đại và mãnh liệt như thế có lẽ cả làng ai cũng biết. Biết nhưng có ai giúp gì được cho tôi đâu, có khi họ còn nói ra nói vô khiến bu tôi càng quyết liệt không cho tôi lấy Hương, và khi

                              nghe tôi dọa đi theo Việt Minh cho Tây nó bắn tôi lòi ruột ra, bu tôi còn bảo:

                              Chẳng thà Tây nó bắn mày chứ bu giết mày không được con ạ – Bu tôi rơm rớm nước mắt – Ðẻ mày ra, nuôi mày tới bây lớn sao tự dưng mày lại không muốn sống nữa hở con? Gái làng này thiếu gì sao mày

                              không lấy mà mày lại đòi lấy cái con tuổi cọp ấy? Mày tuổi lợn mà bu lại cưới vợ tuổi cọp cho mày thì có khác nào bu giết mày không?!

                              Thày bu tôi hiếm muộn chỉ sanh được có 8 người con, 5 trai 3 gái. Các chú các bác tôi người nào cũng từ 10 đến 12 con cơ. Chỉ cái việc có 5 thằng con trai thôi mà đã gây ra một sự xì xèo rồi. Người ta bảo sanh 5

                              đứa con gái là sanh được “Ngũ Long Công Chúa” quý lắm, cha mẹ thế nào cũng được nhờ, tha hồ ngồi rung đùi mà hưởng. Chả thế mà ca dao Việt Nam ta đã có những câu:

                              Mẹ sinh con trai làm chi
                              Ðầu gà má lợn đem đi cho người!
                              Mẹ sinh con gái như tôi
                              Ðầu gà má lợn mẹ ngồi mẹ xơi!

                              Lúc đầu bu tôi làm liền tù tì một lèo 3 đứa con gái, thày tôi khoái chí bảo: “Bu mày ráng thêm 2 con tèo nữa cho đủ Ngũ Long Công Chúa, sau đó làm thêm vài thằng cu tí nữa là tha hồ mà sướng!” Nhưng bu tôi chỉ
                              sanh có 3 đứa con gái, kế đó lại làm một lèo 5 thằng con trai rồi thôi luôn.

                              Chơi tam cúc có 4 con tốt cùng loại đỏ hay đen thì gọi là tứ tử, có 5 tốt là ngũ tử. Tứ tử trình làng, ngũ tử cướp cái, khéo chơi một chút là ăn trùm làng. Còn đẻ mà 5 thằng con trai thì người ta lại bảo là ngũ quỷ, thế

                              nào trong 5 thằng cũng có một, hai thằng chẳng ra gì. Trong 5 anh em trai thì tôi là thằng thứ ba, nếu tính cả ba người con gái thì tôi là thằng thứ sáu. Hai ông anh trước tôi đã lập gia đình rồi, các ông ấy củ mỉ cù mì,

                              cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy. Lấy vợ xong là chí thú làm ăn, chỉ mong sao nói được nghiệp nhà, cầy ruộng cấy lúa. Nói một cách giản dị là làm một anh nông dân chứ không có cao vọng gì cả. Hai đứa em trai thì còn
                              đi học, chúng chưa biết gì, có muốn vợ cũng phải chờ vài năm nữa.

                              “Nữ thập tam, nam thập lục” các cụ ta đã bảo như thế nên dù tôi mới 16 tuổi đã đòi vợ cũng không ai nói gì được. Cái điều ồn ào nhất là tôi tuổi heo mà lại đòi lấy vợ tuổi cọp. Hương kém tôi 3 tuổi, mới 13 thôi mà

                              trông cứ mơn mởn ra, mỗi lần gặp nàng là tôi chỉ muốn cắn cho một cái. Trai làng tôi nhiều thằng nhìn nàng đôi mắt cứ hau háu, thèm nhỏ dãi, nhưng chúng chỉ dám đứng xa xa mà nhìn thôi chứ không dám xáp lại

                              gần. Lấy vợ tuổi cọp để về chầu ông bà ông vải sớm à?! Con gái tuổi Dần khó lấy chồng lắm, chả biết đã có bao nhiêu bà bị ở giá xuốt đời vì sanh nhằm năm Dần và đã có bao nhiêu ông sớm ngỏm củ tỏi vì lấy phải

                              vợ tuổi cọp, thế nhưng người ta vẫn cứ kiêng “có thờ có thiêng, có kiêng có lành” mà lị!

                              Thày tôi ngày trước có đi lính Pháp, dù gì thì cũng đã có tiếp xúc với Tây học một tý nên không đến nỗi nào. Thấy tôi tuyên bố nhất định phải lấy Hương, dù hôm trước cưới, hôm sau có đi ngủ với giun ngay cũng cứ lấy, thày tôi bảo:

                              - Nó đã nhất định như thế thì mình cứ đi nói con đó cho nó. Biết đâu thằng này chẳng đặc biệt hơn người ta, tôi nghe kể heo rừng mà thuộc loại “lăn chai” thì cọp cụng chả làm gì được!

                              Nghe thày tôi nói, tôi đã mừng mừng nhưng bu tôi lại gắt lên:

                              - Ông có đẻ đâu mà ông đau, đã không cản nó thì chớ lại còn nối láo cho giặc, không nghe cụ Lý Ngọ bảo “Dần, Thân, Tỵ, Hợi tứ hành xung” đấy à? Ai lại đi cưới con gái tuổi Dần về cho con mình, có mà điên!

                              Thày tôi cười khà khà:

                              - Gớm, cái lão Lý Ngọ ấy nói đã chắc gì đúng. Lão để mồ, để mả, coi hướng nhà hướng cửa, bói toán cho người khác thì được thế mà chính lão lại nghèo rớt mồng tơi!

                              Cụ Lý Ngọ người làng bên, làm thày địa lý và coi bói, cũng phét lác khiếp lắm. Nhờ cụ coi thế đất hoặc sửa hướng cửa, hướng nhà cho thì chỉ một bữa rượu với vài đồng bạc. Cụ khoe là đã để mồ để mả cho nhiều

                              người, có người nhờ cụ mà ăn nên làm ra hoặc con cái học hành đỗ đạt làm đến tri phủ, tri huyện, còn những hạng như lý trưởng, chánh tổng thì khối. Có điều cụ làm cho người ta được, còn làm cho chính mình lại

                              không được, hoặc giả là cụ quên chưa làm cho mình nên lúc nào cụ cũng chỉ có một cái quần cháo lòng với cái áo the thâm rách và cái khăn xếp dán nhấm tứ tung. Một hôm đi qua trước cửa nhà tôi, cụ đứng ngắm

                              nghía một lát rồi lững thững bước vào. Nghe chó sủa, thày tôi chạy ra, may mà đúng lúc, nếu không thì cụ đã bị mấy con chó cắn cho te tua rồi, “chó cắn áo rách” mà lị!

                              Sau một tuần trà nước, cụ bảo:

                              - Tại căn nhà này quay về hướng Nam , chứ nếu mà hướng Bắc thì ông đã có 5 đứa con gái thay vì 5 thằng con trai rồi!

                              Chắc ý cụ muốn nói thay vì “Ngũ Quỷ” là “Ngũ Long” chứ gì. Thấy tôi ngồi học ở bàn, cụ gọi đến cho cụ coi, ngắm nghía một lát, cụ phán:

                              - Thằng này tướng mạo coi cũng tạm được, nhưng mặt này là mặt bán trời không mời Thiên Lôi đây!

                              Khi cụ đi rồi, tôi nghe thày tôi lẩm bẩm:

                              - Làm cửa về hướng Bắc để mùa Ðông gió Bấc thổi vào cho mà chết rét, còn nhà có nhiều con gái chỉ tổ lo ngay ngáy chứ nước mẹ gì, dốt thế mà cũng bàn!

                              Riêng tôi, chỉ nhìn hình dáng cụ là đã chán rồi, tôi hỏi thày tôi:

                              - Chắc nhà ông thày Ðịa Lý này ngon lành lắm hở thày?

                              - Không bằng cái bếp nhà mình!

                              Có tin vào thày bói cũng chỉ nên tin một phần nào cho nó vui thôi chứ chẳng nên tin nhiều làm gì. Những vị có chân tài, đọc nhiều, hiểu rộng và có nhiều kinh nghiệm chả nói làm gì, còn phần đông là những tay ấm ớ,

                              nghèo rớt mồng tơi lại chỉ cách cho người khác làm giầu mới tiếu lâm chứ?! Cứ tin vào những điều các vị ấy tán hiêu tán vượn thì có ngày đổ thóc giống ra mà ăn!

                              Làm cái gì cũng phải coi ngày, coi giờ, hạp với không hạp, kiêng cái này cữ cái kia... Cứ như việc lấy vợ của hai ông anh tôi thì rõ. Trước khi cưới dâu, bu tôi đã nhờ thày so tuổi, coi ngày đủ thứ, thế nên hai ông anh
                              t
                              ôi mới rinh về được hai bà vợ, một bà thì như cái hột mít, còn một bà lại gầy đét như con cá hố! Hai người con dâu này đều do bu tôi chọn cả. Tôi ấy à, nếu không lấy được người tôi yêu chẳng thà tôi ở giá cho đến

                              già hoặc đi theo Việt Minh cho Tây nó bắn lòi phèo ra chứ nhất định không chịu bắt chước mấy ông anh tôi.

                              Thày tôi xem chừng đã ngả hẳn về phía tôi, chỉ riêng bu tôi là còn găng lắm, có lúc bà nổi cơn tam bành chửi tôi thậm tệ, bà nhiếc: “Cho mày đi học ngậm bút sắt hay ngậm cái gì mà mày ngu thế? Tử tế không muốn

                              lại muốn rước cái của nợ vào mình”. Có lần bu tôi lại dùng tình cảm để lung lạc tôi, bà mếu máo:

                              - Mày có chọc phá đền miếu nào không hở con, để đến nỗi những người khuất mày khuất mặt nổi giận mà phạt mày trở nên dở dở ương ương thế? Có thì bảo cho bu biết để bu sửa lễ tạ lỗi cho, kẻo càng ngày nó

                              càng lậm vào thì khổ đấy con ạ, chứ cưới vợ đẹp về rồi lăn đùng ra chết thì cưới làm gì?! Mày nghe lời bu đi, chọn con khác, hễ bu nhờ thày coi tuổi mà thấy hạp là bu cưới ngay cho!

                              Mặc bu tôi nói gì thì nói, tôi vẫn khăng khăng chỉ lấy Hương của tôi thôi. Nói mãi mỏi mồm, bu tôi bèn đổi chiến thuật là không thèm nói gì đến tôi nữa. Trong làng tôi lại có tiếng xì xèo: “Ðã bảo là đẻ 5 thằng con trai,

                              Ngũ Quỷ thì thế nào chả có một, hai thằng chẳng ra gì mà”! Ngoài ra họ còn đồn tôi là thằng dở hơi hoặc điên điên khùng khùng... Một lần Dì Năm, em gái của bu tôi tới chơi, lấy tay sờ trán tôi như mấy bà mẹ thường

                              khám xem con mình có ấm đầu không rồi Dì hỏi:

                              - Mày có bị làm sao không thế hở con?

                              Tôi hỏi lại:

                              - Làm sao là làm sao hả Dì?

                              - Nghĩa là mày có ốm đau, bệnh tật gì không mà mày lại kỳ cục thế?

                              - Con có làm gì đâu mà Dì bảo là kỳ cục?

                              - Không kỳ cục làm sao mày tuổi Hợi lại đòi cưới con vợ tuổi Dần?

                              - Thế tuổi nào mới lấy vợ tuổi Dần được?

                              - Không tuổi nào lấy vợ tuổi Dần được!

                              Tôi ngập ngừng:

                              -Thế nếu Dì cũng tuổi Dần thì Dì có bảo là không tuổi nào lấy vợ tuổi Dần được không?

                              Bu tôi đứng bên cạnh, cho là tôi hỗn với Dì, sẵn tay cầm cái chổi, bà đập lên đầu tôi cái cốp làm tôi giật mình bỏ chạy.

                              Thế mới biết ở đời làm chuyện gì cũng phải có quyết tâm mới được. Việc càng khó thì quyết tâm càng phải cao, chứ nếu cứ xìu xìu ển ển, đến đâu hay đến đó thì còn lâu mới thành công được. Thày tôi tuy đã ngả hẳn

                              về phía tôi nhưng là theo kiểu thụ động thôi, chứ thày tôi cũng không thể bênh vực tôi một cách tích cực được, dù gì thì cụ ông cũng phải nể cụ bà chứ!

                              Riêng tôi, đã “chót đành phải chét”, làm một phát tháu cáy. Nếu bu tôi theo ván bài này tới cùng có lẽ tôi phải đổi chiến thuật khác. Thú thật, bỏ Hương để lấy người khác thì tôi không bỏ được, còn bỏ nhà đi theo Việt

                              Minh cho Tây nó bắn lòi phèo ra tôi cũng teo lắm, thế nhưng tôi vẫn phải tố một cú chót xem sao.

                              Một hôm tôi giả vờ sắp xếp quần áo bỏ vào một cái rương nhỏ, như đang chuẩn bị cho một chuyến đi xa. Tôi cố làm dềnh dang cho bu tôi thấy. Quả nhiên, tưởng tôi sắp bỏ nhà đi xa thật, bu tôi khóc bù lu bù loa:

                              - Ối giời ơi, con ơi! mày tính bỏ thày bỏ bu mày đi thật đấy à? Mày muốn lấy vợ thì bu lấy cho mày chứ bu có cấm cản gì mày đâu? Chẳng qua là bu chỉ không bằng lòng cho mày lấy cái con tuổi Dần ấy thôi. Ðẻ mày

                              ra, nuôi mày từ lúc một bàn tay không hết, hai bàn tay không đầy cho tới bây lớn để mày giả nghĩa thày, nghĩa bu như thế đấy hở con?!

                              Dù chỉ mới dàn giáo thế thôi chứ tôi đã định đi ngay đâu, nhưng thấy bu tôi khóc thảm thiết quá, tôi cũng mủi lòng nước mắt, nước mũi chẩy lã chã, nói không nên lời:

                              - Bu không thương con thì bu cứ để con đi chết trận chết mạc, chết đông chết tây cho rồi!...

                              Quả thật là tiến thoái lưỡng nan. Làm cho bu tôi tưởng là tôi sắp đi, bây giờ không đi cũng kỳ, còn đi thật thì biết đi đâu? Ðang lúng túng không biết phải làm sao, thì may quá, cậu Út tôi tới. Bên Ngoại tôi chỉ có cậu Út là
                              người danh giá và có uy tín với chúng tôi hơn cả. Chẳng những cậu có uy tín với đám trẻ mà còn uy tín cả với người lớn nữa. Cậu có bằng Ðíp lôm lại đang làm Nhật trình ở trên Hà Nội.

                              Ngày đó ở quê tôi, các vị làm văn, làm báo được coi là danh giá lắm. Cậu Út làm Nhật trình tức là làm báo. Thỉnh thoảng cậu mới về thăm nhà một lần, đầu cậu chải bi-dăng-tin bóng loáng, tóc để cánh gà úp sát vào

                              tai, chân đi giầy đơ-cu-lơ, quần tây trắng, áo sơ mi trắng bỏ trong quần, túi áo cài chiếc bút máy hiệu Kaolo, thứ bút mà mỗi khi viết phải mở nắp rồi xoay xoay cho cái ngòi bút trồi lên, viết xong lại vặn cho cái ngòi bút

                              tụt xuống rồi đậy nắp lại. Ngày ấy bọn trẻ chúng tôi thì thào chỉ mấy ông làm Nhật trình mới có loại bút đó. Mỗi lần cậu Út về, cậu kể chuyện Hà Nội tưng bừng, cậu nói gì người lớn cũng như đám trẻ chúng tôi đều tin hết.

                              Bước vào nhà, thấy bu tôi đang bù lu bù loa, còn tôi thì mếu máo, cậu mới hỏi đầu đuôi sự việc. Bu tôi kể câu chuyện tôi đòi lấy vợ tuổi Dần cho cậu nghe. Ðợi bu tôi nói xong, tôi cũng bầy tỏ nỗi lòng để cậu hiểu.

                              Nghe xong, cậu cười cười hỏi tôi:

                              - Cháu định lấy cái con Hương, con ông Chánh Ðoàn ở xóm Giữa chứ gì? Vừa rồi đi đường cậu cũng có gặp nó, con này được, đã thắt đáy lưng ong lại mảnh mày hay hạt...

                              Quay về phía bu tôi, cậu tiếp:

                              - Chị mà được đứa con dâu như thế là quý lắm rồi còn đòi chi nữa. Còn cái vụ tuổi tác, hạp với không hạp, nó xưa quá rồi, chị ơi. Cứ tin vào mấy ông thày bói thì có ngày đổ thóc giống ra mà ăn rồi hoa hồng không

                              chưng đi chưng hoa cứt lợn!...

                              Thật cậu là người ăn học có khác, cậu nói câu nào cứ chắc nình nịch câu ấy. Chiều hôm đó, cậu ở lại dùng cơm với gia đình tôi và cũng nhờ sự dẫn giải của cậu mà bu tôi nghe ra. Cuối năm đó, tôi rước được con

                              cọp yêu quý của tôi về nhà. Cậu Út tôi lại còn bảo:

                              - Cưới vợ rồi, nếu mày không muốn ở nhà quê thì lên Hà Nội làm Nhật trình với cậu. Cũng phải ra ngoài để mở mắt ra với người ta, chứ cứ lúi húi thế này mãi đến bao giờ mới khôn được?!

                              Người xưa có câu “Không vào hang hùm sao bắt được cọp con” thật đúng quá sức. Tôi không chỉ vào “hang hùm” một lần, mà đã mò mẫm vào nhiều lần, có thể nói là rất nhiều lần.. Cứ thế rỉ rả tôi đã khều ra được

                              gần một tá cọp con, con nào con nấy đều rất dễ thương, còn con cọp mẹ thì càng ngày càng hiền khô à.

                              Nghe đến đây có lẽ quý vị thày bói cảm thấy ngứa tai, “nghịch nhĩ” lắm đấy: Ừ, ba hoa cho lắm vào, đến khi lăn đùng ra chết nhăn răng mới không kịp hối! Quý vị rủa tôi như thế cũng chẳng sao.

                              Tôi sinh năm 1935, tuổi Ất Hợi, còn con cọp cưng của tôi sinh năm 1938, tuổi Mậu Dần. Con Heo 64, con Cọp 61.. Hai con ôm nhau ngủ đã gần 50 năm nay mà chẳng có chuyện gì xẩy ra cả. Giả như bây giờ tôi có

                              nhắm mằt xuôi tay mà về chầu ông bà đi chăng nữa thì cái câu “Tứ Hành Xung” của quý vị thày bói cũng là sai rồi!..

                              Hưng yên


                              T_Q
















                              Comment

                              Working...
                              X
                              Scroll To Top Scroll To Center Scroll To Bottom