• Nếu đây là lần đầu tiên bạn ghé thăm Trang nhà Chút lưu lại, xin bạn vui lòng hãy xem mục Những câu hỏi thường gặp - FAQ để tự tìm hiểu thêm. Nếu bạn muốn tham gia gởi bài viết cho Trang nhà, xin vui lòng Ghi danh làm Thành viên (miễn phí). Trong trường hợp nếu bạn đã là Thành viên và quên mật khẩu, hãy nhấn vào phía trên lấy mật khẩu để thiết lập lại. Để bắt đầu xem, chọn diễn đàn mà bạn muốn ghé thăm ở bên dưới.

Thông báo Quan trọng

Collapse
No announcement yet.

Chiều cuối năm nghe nhạc Tết

Collapse
X
 
  • Filter
  • Time
  • Show
Clear All
new posts

  • Chiều cuối năm nghe nhạc Tết

    Xuân về trên bãi cỏ non
    Gió xuân đưa lá vàng xuôi nguồn
    Hoa cười cùng tia nắng vàng son
    Lũ ong lên đường cánh tung tròn…

    Nếu thực sự có mùa xuân êm đềm, và tươi thắm đến như vậy mà bạn vẫn chưa hài lòng thì xin nghe thêm vài câu nhạc nữa – cũng từ bản “Hoa Xuân,” của Phạm Duy:

    Có một chàng thi sĩ miền quê
    Hái bông hoa trao người xuân thì
    Có một bầy em bé ngoài đê
    Hát câu i tờ đón Xuân về…

    Tôi dám cá là ngay cả vào thời Trung cổ, cũng không nơi nào có một mùa xuân an bình và tươi đẹp (tới) cỡ đó. Mà Phạm Duy đâu phải là người thuộc thời Trung cổ. Vậy chớ ổng lôi ở đâu ra một mùa xuân (vào thời đại chúng ta) mà thái hòa và an lạc dữ vậy cà?

    Nó đẹp hơn mơ nữa là khác. Và sao tui nghi là ổng đã nằm mơ (thiệt) quá hà. Chớ giữa chúng ta, nhất là những kẻ sinh trưởng ở miền Nam Việt Nam, có mấy ai đã từng nhìn thấy cái đê. Bờ đê trần trụi vắng hoe cũng khỏi có luôn, nói chi đến “một bầy em bé… hát câu i tờ đón xuân về ” – vào một buổi chiều xuân nào đó, đã xa lắc xa lơ – trên bờ đê lộng gió.

    Còn chuyện “có một chàng thi sĩ miền quê, ngắt bông hoa trao người xuân thì ” (ôi thôi) nhắc đến làm chi cho nó thêm buồn. Tìm đâu ra (nữa) một thằng cha làm thơ dễ thương và hiền lành đến thế?

    Tui nói vậy bạn dám cãi lắm nha. Bạn dám sẽ đưa Nguyễn Bính ra làm bia đỡ đạn, với lý do “ổng là thi sĩ miền quê cuối cùng” của thời đại chúng ta. Tệ hơn nữa, bạn còn dám mang những bài thơ lục bát (đã được “phóng ảnh treo tường” để bán) của Nguyễn Duy ra để hù tui nữa – không chừng?

    Xin lỗi bạn chớ, cỡ Tú Xương đây mà cũng đã có lúc phải ứa lệ – rấm rứt khóc thầm (dám bằng tiếng Pháp) vì nạn đô thị hóa, đây nè:

    Sông kia giờ đã nên đồng
    Chỗ làm nhà cửa, chỗ giồng ngô khoai
    Đêm nghe tiếng ếch bên tai
    Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò…

    Xá gì Nguyễn Bính, nói chi tới cỡ Nguyễn Duy. Tóm lại, tui tin rằng Nguyễn Khuyến mới đích thực là thi sĩ miền quê cuối cùng của dân tộc Việt Nam:

    Tháng Giêng hai mươi mốt chợ Đồng
    Năm nay chợ họp có đông không
    Dở giời mưa bụi còn hơi rét

    Nếm rượu tường đền được mấy ông

    Chớ còn mấy trự làm thơ (lóc nhóc) sau này đều đã bị đô thị hóa, đã “phong sương mấy độ qua đường phố” hết trơn rồi – theo như cách nói của Sơn Nam. Và tôi ngại nhất là cái kiểu bụi đời (ướt át) của ông Thế Lữ:

    Rũ áo phong sương trên gác trọ
    Ngắm nhìn thiên hạ đón xuân sang

    Cái gác trọ này – tôi bảo đảm – nằm ở Hà Thành, vào cuối thập niên ba mươi hay đầu bốn mươi gì đó. Thêm cái kiểu cách “rũ áo phong sương” đủ khiến chúng ta hình dung ra được cả đám Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, Xuân Diệu, Huy Cận… đã sống cải lương chết mẹ đi rồi. Đâu còn “thi sĩ miền quê” nào nữa, mấy cha?

    Đô thị hóa, tất nhiên, không phải chỉ xảy ra ở Hà Nội Ba Mươi Sáu Phố Phường. Không tin, cứ đọc Nguyễn Bính mà xem:

    Đôi ta lưu lạc phương Nam này
    Đã mấy mùa xuân én nhạn bay
    Xuân đến khắp trời hoa mận nở
    Riêng ta với người buồn lắm thay

    Bạn thấy chưa: lại thêm hai ông nhô con bỏ nhà “dzô” Nam, thuê gác trọ, sống giữa Sài Thành Hoa Lệ. Mà đi giang hồ chút đỉnh vậy là phải chớ. Chính quê hương của Nguyễn Bính cũng đã nhiễm bụi thị thành từ lâu rồi, còn nấn ná ở đó làm chi, cho má nó khi:

    Hoa chanh mọc ở vườn chanh
    Thầy u mình với chúng mình chân quê
    Hôm qua em đi tỉnh về
    Hoa đồng cỏ nội bay đi ít nhiều…

    Coi: nàng mới ra tỉnh về (có chút xíu hà) mà hoa đồng cỏ nội đã bay đi mất liền một mớ. Lỡ mà “ẻm” ghé chơi Hà Nội hay Hải Phòng (cỡ) ba đêm là kể như rồi, còn gì là ” người xuân thì “theo tiêu chuẩn” chân quê ” nữa, đúng không?

    Bạn hết cãi chưa? Dù bạn đã tắt đài, tôi biết bạn vẫn còn ấm ức vì cái giọng điệu hoài cổ cực đoan và (hơi) quá khích của tui từ khi đặt bút xuống cho tới bây giờ – phải không nào?

    Đừng có nghĩ bậy bạ như vậy, mang tội chết à nha, cha nội. Coi: cuộc tình dấm dớ của một anh thi sĩ miền quê với một cô gái xuân thì – hay hình ảnh một bờ đê lộng gió, với bầy em bé tung tăng, hát câu i tờ, vào buổi chiều xuân có nắng vàng hanh nào đó – hoàn toàn và tuyệt đối có liên quan, dính dáng gì tới tui đâu. Cớ sao tôi lại hoài cổ chớ? Đây là chuyện riêng của… Bà Huyện Thanh Quan hay (cùng lắm) là của ông nội hoặc của ông già tôi thôi hà.

    Mà hoài cổ, theo tôi, là thứ tình cảm hơi khó hiểu. Làm sao chúng ta có thể yêu mến hay ngưỡng mộ một thời đại mà mình tuyệt đối không có dính dáng gì tới nó? Hoài vọng hay hoài cảm, có lẽ, dễ hiểu và phổ biến hơn. Mọi người, khi bắt đầu luống tuổi, hẳn đều thấy tiếc nuối ít nhiều khoảng ấu thơ hay niên thiếu của mình – dù chúng ta sinh ra và trưởng thành ở bất cứ đâu.

    Dù vậy, tôi vẫn lậy Trời cho bạn đừng xui tới cỡ là sinh ra ở miền Bắc – vào khoảng thập niên 1940, 50 hay 60… gì đó – và cứ phải sống mãi ở nơi đó cho đến bây giờ. Tuổi thơ và tuổi trẻ của bạn – tất nhiên – cũng đẹp, cũng thơ mộng vậy; tuy nhiên, tôi tin là nó sẽ đẹp hơn, mộng mơ hơn (chút đỉnh) nếu Bác và Đảng đừng xía vô cuộc đời bạn quá nhiều – như họ vẫn cứ thích làm như thế, từ hơn nửa thế kỷ qua.

    Còn nếu bạn sinh trưởng ở miền Nam thì đỡ mệt biết chừng nào mà nói. Sẽ không ai bắt ai phải đeo khăn quàng đỏ và đi nhặt rác để hoàn thành kế hoạch nhỏ. Bạn cũng được miễn cái vụ thay trời làm mưa hay nghiêng đồng cho nước chảy ra ngoài, và bạn được tự do đi biểu tình ” đả đảo ” hoặc chửi rủa bất cứ thằng cha hay con mẹ (cà chớn) nào mà mình không thích.

    Trong một hoàn cảnh sống tương đối dễ thở như thế (và nếu bạn lại sống trong một thành phố ở cao nguyên ) thì nhìn thấy “xuân về trên bãi cỏ non” (kể như) là chuyện nhỏ thôi. Điều đáng tiếc là những ngày tháng an lành, phẳng lặng đó không kéo dài lâu.

    Đến khoảng cuối thập niên năm mươi, theo trí nhớ non nớt của tôi, trong không khí an bình của miền Nam đã có thoang thoảng mùi vị chiến tranh – qua những bản nhạc tâm lý chiến (thường được hát ở phòng trà, và nghe ra hơi nhiều kịch tính) của những ông nhạc sĩ quân đội, như bản “Phiên gác đêm Xuân” của Nguyễn Văn Đông chả hạn:

    Đón giao thừa một phiên gác đêm
    Chờ xuân đến súng xa vang rền
    Xác hoa tàn rơi trên báng súng
    Ngỡ rằng pháo tung bay
    Nào ngờ đâu hoa lá rơi…

    Trời đất, đơn vị bạn đụng địch, “súng xa vang rền” mà Nguyễn Văn Đông vẫn đang mơ ngủ. Không hề nghe ổng ban lệnh ứng chiến hay kế hoạch cứu viện gì hết trơn hết trọi; đã vậy, sau khi tỉnh giấc, ổng bắt đầu… mơ mộng:

    Ngồi ngắm mấy nóc chòi canh
    Mơ rằng đây mái nhà tranh
    Và ước chiếc bánh ngày xuân

    Cùng hương khói vương niềm thuơng…

    Thiệt tình, ổng làm đảo ngược binh pháp hết trơn. Người ta thì cư an tư nguy còn ổng thì cư nguy tư an. Những sĩ quan cao cấp trong quân đội miền Nam, như đại tá Nguyễn Văn Đông, chắc có hơi nhiều; bởi vậy – chỉ chừng mười năm sau – năm 1968 thì súng AK của Trung Cộng và Tiệp Khắc nổ thiệt, và nổ ròn rã khắp bốn mươi tỉnh lị và thành phố của miền Nam (kể luôn thủ đô Sài Gòn).

    Cũng từ đây, chiến tranh lan vô thành phố. Nay, plastic đặt nổ “lầm” ở chỗ này; mai, hỏa tiễn 122 ly rơi “lộn” vô chỗ khác. Và dù vậy, xã hội miền Nam vẫn cứ vui như tết – khi Tết đến.

    Nếu so với miền Bắc – nơi mà vì “hoàn cảnh đất nước khó khăn” nên chỉ có quí vị ủy viên trung ương Đảng CSVN uống rượu mừng xuân, thay cho cả nước – người dân miền Nam hoàn toàn bình đẳng trong chuyện đón xuân. Không tin, nghe (chơi) “Ly rượu mừng” của Phạm Đình Chương là biết liền hà:

    Ngày xuân nâng chén ta chúc nơi nơi
    Mừng anh nông phu vui lúa thơm hơi
    Người thương gia lợi tức
    Người công nhân ấm no
    Thoát ly đời gian lao nghèo khó
    Á … a … a … a
    Nhấp chén đầy vơi chúc người người vui
    Á … a … a … a
    Nhấp chén đầy vơi chúc người người vui
    Á … a … a … a
    Muôn lòng xao xuyến duyên đời
    Rót thêm tràn đây chén quan san
    Chúc người binh sĩ lên đường
    Chiến đấu công thành
    Sống cuộc đời lành
    Mừng người vì nước quên thân mình

    Kìa nơi xa xa có bà mẹ già
    Từ lâu mong con mắt vương lệ nhòa
    Chúc bà một sớm quê hương
    Bước con về hòa nỗi yêu thương
    Á … a … a …
    Hát khúc hoan ca thắm tươi đời lính
    Rượu hân hoan mừng đôi uyên ương
    Nào cạn ly mừng người nghệ sĩ
    Tiếng thi ca chấm phá tô nên đời mới
    Bạn hỡi vang lên lời hứa thiêng liêng
    Chúc non sông hào bình hòa bình
    Ngày máu sương thôi tuôn rơi
    Ngày ấy quê hương yên vui
    Đợi anh về trong chén tình đầy vơi
    Nhấc cao ly này
    Hãy chúc ngày mai sáng trời tự do
    Nước non thanh bình
    Muôn người hạnh phúc chan hòa

    Ước mơ hạnh phúc nơi nơi
    Hương thanh bình dâng phơi phới

    Coi: nẫy giờ mới chừng mười phút mà mỗi người đã uống đâu cỡ chục ly: ly tặng anh nông phu, ly chào anh công nhân, ly mừng ông thương gia, ly mừng người nghệ sĩ… Chưa đã, còn thêm vài “chén quan san” để “chúc người binh sĩ lên đường” nữa. Thiệt, vui còn hơn tết và cả nước (chắc chắn) đều “xỉn” thấy mẹ luôn!

    Thỉnh thoảng mới có vài chiến sĩ say mê chiến đấu (hay đãng trí) đến độ quên luôn cả nhậu, và nhất định “Xuân này con không về”:

    Con biết không về mẹ chờ em trông
    Nhưng nếu con về bạn bè thương mong
    Bao lớp trai hùng chào xuân chiến trường
    Không lẽ riêng mình êm ấm
    Mẹ ơi con xuân này không về…

    Những chàng “trai hùng chào xuân chiến trường” như thế, tiếc thay, không nhiều và cũng không mấy khi được giữ những chức vụ cao trong quân đội. Điều đáng tiếc hơn nữa là trong cuộc chiến tự vệ vừa qua, quân dân miền Nam đã áp dụng một chiến lược (rất) sai lầm. Thay vì “vui nhiệm vụ không quên xuân” thì họ đã làm ngược lại là “vui xuân nhưng không quên nhiệm vụ”. Nói cách khác “vui xuân” mới là chuyện chính, còn “nhiệm vụ” chỉ là chuyện phụ (và là chuyện nhỏ) thôi!

    Cùng lúc – ở miền Bắc Việt Nam – khi Tết đến (sau khi nghe Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Tổng Bí thư, thủ trưởng ban ngành, đơn vị… chúc Tết xong) là mọi người đâm bổ đi “tranh thủ làm việc gấp hai” để “thi đua lập chiến công dân Đảng.” ( Đ… mẹ chơi vậy ai chơi cho lại, mấy cha!)

    Cuộc chiến Bắc Nam chấm dứt ra sao, vào mùa Xuân năm 1975, mọi người đều biết (và đều tiên đoán được). Từ đó, nhân dân hai miền đều chỉ còn được nghe một bản nhạc xuân duy nhất: Mùa xuân trên thành phố Hồ Chí Minh quang vinh, ôi đẹp biết bao, biết mấy tự hào. Sài Gòn ơi cả nước vẫy tay chào…

    Cũng như bạn, tôi chịu không nổi cái loại nhạc (thổ tả) này nên đã vẫy tay chào “thành phố Hồ Chí Minh quang vinh” để… ra đi – và đi hơi sớm. Từ đó đến nay đã hơn một phần tư thế kỷ. Ba mươi lăm năm qua biết bao nhiêu là nước sông, nước suối, nước mương, nước rãnh… đã ào ào chảy qua cầu (và qua cống)?

    Chiều nay, chiều cuối năm, ở một góc trời xa, tôi ngồi ghi lại những ý nghĩ lan man vụn vặt để gửi bạn đọc chơi – sau khi nghe hết một CD nhạc trong quán vắng, bắt đầu từ bản “Hoa Xuân” của Phạm Duy, đến bản cuối cùng (“Xuân này con không về”) của Trịnh Lâm Ngân.

    Nhạc xuân gì mà nghe buồn quá má ơi!

    Tương Năng Tiên
    Similar Threads
Working...
X
Scroll To Top Scroll To Center Scroll To Bottom