• Nếu đây là lần đầu tiên bạn ghé thăm Trang nhà Chút lưu lại, xin bạn vui lòng hãy xem mục Những câu hỏi thường gặp - FAQ để tự tìm hiểu thêm. Nếu bạn muốn tham gia gởi bài viết cho Trang nhà, xin vui lòng Ghi danh làm Thành viên (miễn phí). Trong trường hợp nếu bạn đã là Thành viên và quên mật khẩu, hãy nhấn vào phía trên lấy mật khẩu để thiết lập lại. Để bắt đầu xem, chọn diễn đàn mà bạn muốn ghé thăm ở bên dưới.

Thông báo Quan trọng

Collapse
No announcement yet.

Loét hang vị dạ dày

Collapse
X
 
  • Filter
  • Time
  • Show
Clear All
new posts

  • Loét hang vị dạ dày

    Loét hang vị dạ dày
    Viêm hang vị nghĩa là gì?
    Hang vị là từ dùng để chỉ phần nằm ngang của dạ dày, từ góc bờ cong nhỏ tới lỗ môn vị
    (theo thứ tự từ trên xuống dưới dạ dày chia thành phình vị, thân vị, hang vị và lỗ môn vị, dạ dày có 2 bờ là bờ cong lớn và bờ cong nhỏ). ,viêm hang vị là 1 tên gọi riêng của bệnnh viêm dạ dày - tá tràng. MỜi bnạ tham khảo bài viết sau để hiểu rõ hơn về bệnh tình nhé.
    Viêm loét dạ dày - tá tràng là một trong những bệnh gặp khá phổ biến trong cộng đồng dân cư nước ta. Bệnh gặp ở mọi lứa tuổi nhưng người lớn chiếm tỷ lệ cao hơn trẻ em. Đặc điểm của bệnh là tùy theo các vị trí của viêm và loét khác nhau mà có các tên gọi là viêm dạ dày, viêm hang vị, viêm tâm vị, viêm bờ cong nhỏ hoặc loét bờ cong nhỏ, loét hang vị, loét tiền môn vị, viêm tá tràng, loét tá tràng hoặc cả dạ dày và hành tá tràng đều bị viêm, loét người ta gọi là viêm, loét dạ dày - tá tràng.
    Từ lâu có nhiều giả thuyết nói về nguyên nhân của bệnh viêm, loét dạ dày - tá tràng, trong đó thuyết về thần kinh có vẻ nhiều thuyết phục hơn cả và đã tồn tại trong một thời gian khá dài nhiều thập niên. Song hành với giả thuyết thần kinh, một giả thuyết về sự có mặt của một loại vi khuẩn, tồn tại ở niêm mạc và dưới niêm mạc dạ dày cũng đã được đề cập đến. Mãi đến năm 1983, hai nhà khoa học người Australia (Warren và Marshall) mới thành công trong việc nuôi cấy, phân lập để xác định được loại vi khuẩn gây viêm loét dạ dày - tá tràng đó và công bố cho toàn thế giới biết kẻ thù nguy hiểm này trong bệnh lý viêm loét dạ dày - tá tràng. Đó là loại vi khuẩn được đặt tên là Hélicobacter pylori (viết tắt là HP).
    Triệu chứng chính của viêm, loét dạ dày - tá tràng như thế nào?
    Đau: đau là triệu chứng hay gặp nhất ở bệnh nhân có hội chứng dạ dày - tá tràng. Vị trí đau thường gặp nhất là vùng thượng vị (trên rốn), đau âm ỉ hoặc đau dữ dội. Đau âm ỉ có khi kéo dài từ vài tháng đến vài ba năm, có khi hàng chục năm. Nhiều bệnh nhân đau có tính chất chu kỳ (một chu kỳ khoảng từ một tuần đến vài tuần trở lên) và thường xảy ra vào lúc giao mùa, đặc biệt là mùa rét. Đôi khi trạng thái thần kinh căng thẳng, lo lắng, sau ăn thức ăn chua, cay (ớt, rượu) cũng làm cơn đau xuất hiện hoặc đau kéo dài.Tính chất đau của viêm hoặc loét dạ dày - tá tràng nhiều khi khó phân biệt nhưng mới bị viêm thì ăn vào cơn đau sẽ tăng lên, còn loét thì khi đói cơn đau sẽ xuất hiện hoặc đau xuất hiện bất cứ lúc nào, no, đói đều đau.
    Rối loạn tiêu hóa: Các triệu chứng gây rối loạn tiêu hóa như đầy hơi, chướng bụng, trung tiện, phân có khi nát có khi lỏng, có khi rắn như phân dê. Trong những trường hợp loét hành tá tràng lâu ngày gây co kéo làm hẹp môn vị thì ăn không tiêu, bụng ậm ạch khó chịu, nhiều khi phải móc họng nôn ra mới thấy thoải mái. Vì vậy người bị loét dạ dày - hành tá tràng lâu năm thường gầy, da xanh, niêm mạc nhợt nhạt, đặc biệt có biến chứng thường bị xuất huyết tá tràng. Khám bệnh nhân, đa số bụng có lõm lòng thuyền, lắc bụng thấy có tiếng kêu óc ách do ứ đọng nhiều dịch vị.
    - Xquang vẫn có giá trị chẩn đoán nhất định, đặc biệt là trong chụp phim dạ dày hàng loạt có uống thuốc cản quang.
    Ngày nay, nội soi dạ dày có giá trị lớn trong chẩn đoán viêm, loét dạ dày - tá tràng. Ngoài việc xác định được vị trí tổn thương, tình trạng tổn thương... thì trong những trường hợp nghi ngờ bệnh ác tính có thể sinh thiết để tìm tế bào lạ. Sinh thiết còn giúp cho việc lấy bệnh phẩm để nhuộm Gram, thử test ureaza, nuôi cấy phân lập xác định vi khuẩn HP và làm kháng sinh đồ để xác định tính nhạy cảm với kháng sinh của vi khuẩn này.
    Những biến chứng thường gặp trong bệnh viêm, loét dạ dày - tá tràng là gì?
    Các trường hợp viêm dạ dày - tá tràng nếu không phát hiện sớm và điều trị đúng thì sẽ dẫn đến viêm mạn tính hoặc trở thành loét. Trong các bệnh về dạ dày thì đáng sợ nhất là viêm bờ cong nhỏ dễ biến chứng thành loét và có thể dễ đưa đến ung thư hóa tuy rằng viêm, loét dạ dày thì ít đau hơn viêm loét tá tràng. Ngược lại, viêm loét tá tràng ít bị ung thư hơn nhưng thường hay đau, dễ gây hẹp môn vị (do hành tá tràng loét xơ chai gây co kéo môn vị), đặc biệt là làm chảy máu. Chảy máu hành tá tràng có thể ồ ạt phải cấp cứu hoặc chảy máu ri rỉ làm cho phân thường có màu đen. Trong trường hợp chảy máu nhiều thì phân thường đen như nhựa đường và mùi hôi rất đặc biệt như “mùi cóc chết”.Biến chứng thủng dạ dày cũng thường gặp. Có những bệnh nhân do bị loét ngầm nên bình thường không đau bụng hoặc đau rất ít, đột nhiên bị thủng dạ dày phải cấp cứu. Trong trường hợp bị thủng dạ dày mà cấp cứu không kịp thời thì dễ đưa đến gây viêm phúc mạc, sốc nhiễm khuẩn và có thể bị tử vong.
    Bệnh viêm loét dạ dày - tá tràng có thể nhầm với bệnh gì ?
    Một số bệnh khi đau vùng thượng vị có thể nhầm với viêm loét dạ dày - tá tràng như viêm tụy, viêm đường dẫn mật, sỏi đường dẫn mật. Trong một số trường hợp viêm ruột thừa ở những giờ đầu cũng có thể đau thượng vị (tỷ lệ này thấp) hoặc ngộ độc thức ăn gây viêm dạ dày cấp tính trong một vài giờ đầu của bệnh. Đau bụng âm ỉ, đi ngoài phân đen có thể nhầm với những bệnh nhân bị giun móc. Trong những trường hợp này cần xét nghiệm tìm trứng giun móc.
    Khi nghi ngờ viêm loét dạ dày - tá tràng nên làm gì?
    Không nên tự điều trị mà nên đi khám bệnh để được thầy thuốc khám cẩn thận sau đó sẽ cho chỉ định chụp dạ dày, đặc biệt là nội soi dạ dày (nếu bệnh viện có điều kiện) để chẩn đoán xác định xem có bị viêm loét dạ dày tá tràng hay không?
    Đối với người có hội chứng dạ dày – tá tràng nên kiêng tuyệt đối rượu, bia, chất chua cay và cả thuốc lá (thuốc lào) và các chất gây kích thích khác như trà đặc, cà phê. Tất cả những chất này ở khía cạnh này hay khía cạnh khác đều có khả năng làm tổn thương niêm mạc dạ dày, đặc biệt là rượu, chua, cay
    Cần làm gì để phòng, chữa trị bệnh viêm, loét dạ dày - tá tràng?
    Ăn uống hợp vệ sinh là khâu quan trọng hàng đầu. Về điều trị, ngày nay người ta khuyến cáo điều trị viêm loét dạ dày - tá tràng dựa trên cơ chế tiêu diệt vi khuẩn HP, chống tăng tiết dịch vị và cần có thuốc bao phủ niêm mạc tránh tác dụng của dịch vị. Ngoài ra cần có chế độ dinh dưỡng tốt, thích hợp cho người mắc bệnh về dạ dày.
    Loét hang vị dạ dày có thể biến chứng sang ung thư?Ngày nay, với tiến bộ của y học, đã phát hiện ra rất nhiều những nguyên nhân và yếu tố nguy cơ của bệnh viêm loét dạ dày nhưo vi khuẩn HP. Do dùng các thuốc giảm đau AINS, Aspirin… Do nguyên nhân từ các bệnh toàn thân khác như: cường chức năng tuyến cận giáp, suy thận, viêm tụy mạn, xơ gan do rượu.
    Bệnh viêm loét dạ dày nói chung và loét vùng hang vị nói riêng có thể xảy ra 4 biến chứng: Xuất huyết tiêu hóa. Thủng ổ loét.Tắc ruột do hẹp môn vị. Ác tính hóa ổ loét.
    Điều trị: cần tuân thủ đúng chỉ định và thời gian dùng thuốc của bác sĩ, nhất là trường hợp của bạn (loét đa ổ vùng hang vị, kèm HP+, dị sản độ I) thì sau khi dùng thuốc điều trị do bác sĩ chuyên khoa chỉ định, nên nội soi kiểm tra lại sau một tháng để xem ổ loét đã liền sẹo chưa? Nếu liền sẹo coi như điều trị có kết quả, nếu thất bại cần tiếp tục điều trị đợt 2-3. Trường hợp điều trị nội khoa không kết quả có thể phải can thiệp bằng phương pháp phẫu thuật. Loét hang vị lại có dị sản tế bào độ I, bạn cần được theo dõi sát và thường xuyên qua nội soi và làm sinh thiết mô bệnh học để dự phòng những biến chứng xấu. Tốt nhất là nên theo một BS chyên khoa điều trị triệt để, đầy đủ, theo dõi sát để dự phòng những biến chứng trên. (Suckhoegiadinh.org theo – Thanh niên – BS Bạch Long
    Viêm loét dạ dày, hang vị, tá tràng, đại tràng là một căn bệnh khó chữa, nó ảnh hưởng rất nhiều đến cuộc sống sinh hoạt hàng ngày của người bệnhDạ dày là một trong những vị trí đầu tiên trong đường tiêu hóa phải xử lý thức ăn từ bữa ăn hàng ngày. Nhờ những co thắt sinh lý nhẹ nhàng và sự hòa trộn với dịch tiết trong dạ dày mà thức ăn được dễ dàng hấp thu ở ruột. Khi bạn ăn uống không điều độ, lo âu, tress, hay dùng các thuốc kháng viêm, giảm đau (nhất là các thuốc trị đau khớp),... làm dạ dày tiết nhiều axít hơn (giống như a xít trong bình ắc-qui). Khi đó chất nhầy ở vách dạ dày không còn đủ sức để bảo vệ dạ dày, chất ít dư thừa này sẽ "ăn mòn" dần vách dạ dày. Kết quả là bạn bị khó tiêu, đầy bụng, đau thượng vị,... thậm chí bị ổ loét ở dạ dày tá tràng. Gần đây một loại vi khuẩn tên là Helicobacter pylori cũng dã được xác nhậ n là một thủ phạm gây ra viêm loét dạ dày - tá tràng. Vậy có cách nào để loại trừ tận gốc căn bệnh này không? Xin thưa cùng các bệnh nhân gia đình tôi có đơn thuốc Nam gia truyền  Chuyên trị : Đau dạ dày, thượng vị, Viêm hang vị phù nề xung huyết, viêm loét hành tá tràng, đại tràng , đầy hơi... (Bệnh nhân thường có các triệu chứng như đau bụng lâm râm ở bụng vùng thượng vị, có khi đau sốc sang hai bên sườn, đau ra sau lưng, hay bị nôn oẹ, ợ chua, ợ hơi, ứa nước miếng, rêu lưỡi dầy thường xuyên bị táo bón hoặc đi ngoài phân sống).
    Bệnh Đau dạ dày viêm loét hang vị dạ dày và cách điều trị hiệu quả
    Vào những năm 70-80, việc chữa bệnh viêm loét dạ dày tá tràng thường dùng các thuốc ổn định, điều hòa thần kinh và đến khi thật sự cần thiết mới phẫu thuật để cắt bỏ bớt các nhánh thần kinh X chi phối việc tiết dịch vị. Kết quả điều trị không cao bệnh nhân thường bị tái phát lại .Những năm gần đây xuất hiện thuốc điều trị loét dạ dày tá tràng ngày càng nhiều, ngày càng hiệu quả hơn. Nhờ đó mà quan điểm và phương pháp điều trị đã thay đổi hẳn, từ một bệnh chủ yếu điều trị bằng ngoại khoa, đã trở thành một bệnh chủ yếu điều trị bằng nội khoa. Có thể nói, đây là một bước ngoặt, một tiến bộ rất lớn trong điều trị loét dạ dày tá tràng. Những trường hợp loét dạ dày tá tràng phải mổ ngày càng ít dần đi, chỉ dành cho những trường hợp loét có biến chứng như chảy máu, thủng hay hẹp môn vị. Chúng ta hy vọng rằng, ngay cả những trường hợp có biến chứng này trong tương lai sẽ ngày càng ít đi và tiến tới không còn nữa, nếu bệnh loét được phát hiện sớm, điều trị kịp thời bằng những thuốc đầy hiệu quả như ngày. Vậy điều gì đã xảy ra trong y học?
    Các phát hiện về vi sinh trong những năm 80 tình cờ nhận thấy có sự hiện diện của vi khuẩn Helicobacter Pylori (HP) trong các mảnh sinh thiết dạ dày. Qua nhiều khảo cứu y học, giờ đây các nhà khoa học đã có thể kết luận rằng, chính chúng là nguyên nhân gây ra viêm loét dạ dày tá tràng. Các vi khuẩn HP từ ngoài xâm nhập vào tế bào niêm mạc dạ dày, cư trú và phát triển tại đó rồi gây ra viêm và teo niêm mạc dạ dày. Tùy theo độc lực của các chủng vi khuẩn và các yếu tố nội tại cụ thể của từng người bệnh mà gây ra loét.Một số yếu tố trung gian do vi khuẩn HP tiết ra, lại là các yếu tố gây ung thư. Các cuộc theo dõi liên tục và lâu dài đã chứng minh rằng, 90% các ung thư dạ dày là có liên quan đến HP và ¾ số ung thư dạ dày mới gặp hiện nay thấy ở vùng châu Á. Tỷ lệ nhiễm HP chung ở người Việt Nam khoảng 70% và gặp trong 70% số người bị loét dạ dày, gặp 90% trong số loét hành tá tràng. Không thể đoán trước được rằng người nào bị nhiễm HP sẽ trở thành ung thư, do đó cách tốt nhất để phòng tránh ung thư là nên diệt trừ HP ngay từ đầu.
    Việc điều trị nhiễm HP cần được tiến hành ở những người có bệnh dạ dày tá tràng, có u lympho ở niêm mạc đường tiêu hóa hay người có tiền sử gia đình ung thư đường tiêu hóa, xét nghiệm thấy vi khuẩn dù chưa mắc bệnh.Thuốc điều trị là kháng sinh mà chủ yếu là Metronidazole hoặc Clarithromycin, nhưng hiện nay hiện tượng đề kháng thuốc đã dần xuất hiện (47 - 86% với Metronidazol, 20% với Clarithromycin và 69% với Amoxiciclin) làm ảnh hưởng nhiều đến kết quả điều trị. Clarithromycin có tỷ lệ thành công cao hơn hẳn so với Metronidazol, nhưng hiệu quả của thuốc sẽ tăng hơn nếu ức chế tiết acid đầy đủ bằng các thuốc ức chế bơm proton để làm tăng độ pH của dạ dày.Các phác đồ điều trị chủ yếu hiện nay là sự phối hợp của 3 hoặc 4 loại thuốc trong số : thuốc ức chế bơm proton - Amoxcycilin - Metronidazol - Clarithromycin và Bismuth hay Tetracyclin.
    Hội Tiêu hóa Việt Nam đã họp bàn nhiều về cách diệt trừ chúng và thống nhất một phương thức chung để điều trị Helicobacter Pylori ở bệnh nhân dạ dày tá tràng có hiệu lực nhất theo tóm tắt như sau:
    - Chỉ định tiệt trừ HP: Loét hành tá tràng; loét dạ dày; viêm teo dạ dày mạn tính hoạt động; u lympho bào dạ dày hoạt hóa thấp; ung thư dạ dày chẩn đoán rất sớm; điều trị lâu dài với thuốc chống viêm không steroid (NSAID) hay có tiền sử loét trước khi điều trị.
    - Có thể dùng trong các trường hợp: Ung thư dạ dày chẩn đoán muộn và đã phẫu thuật; trào ngược dạ dày thực quản; viêm dạ dày đã điều trị nhiều lần không giảm hay con cái những người bị ung thư dạ dày.
    - Công thức điều trị: chọn một trong các phác đồ sau:
    1. Ức chế bơm proton (PPI) + Clarithromycin (C) 500mg + Amoxiciclin (A) 1000mg dùng ngày 2 lần trong ít nhất 7 ngày
    2. [ PPI + C 500mg + Metronidazol (M) 500mg] x 2 lần x 7 ngày
    3. [ PPI + Bismuth (B)200 – 400mg + Tetracyclin (T) 1000mg + M 500mg] x 2 lần x 7ngày
    4. [ PPI + B 200 – 400 mg +T 1000mg + A 1000mg] x 2 lần x 7 ngày
    5. PPI 2 lần/ngày + [ T 250mg + M 200mg + B 108mg ] x 5lần x 10 ngày
    Khi điều trị thử với một phác đồ không thành công thì thử đổi qua phác đồ khác. Không nên điều trị loét dạ dày tá tràng với phác đồ chỉ 1 hay 2 thứ thuốc. Khi thử 2 phác đồ mà vẫn không thành công thì cần cấy lại vi khuẩn và làm kháng sinh đồ.
    Một loại thuốc mới nhất đó là : K-ZARNIZO kêt hợp vơi Mepraz với công thức tiên tiến đầy đủ các thành phần cho một phác đồ điều trị hiệu quả bệnh viêm loét dạ dày ,xung huyết bờ cong hang vị dạ dày ,viêm loét hành tá tràng .Thời gian điều trị làm 02 đợt .Mỗi đợt 14 ngày
    Bệnh Bao Tử
    Trong hệ thống tiêu hoá về dinh dưỡng của con người, bao tử giữ một vai trò rất quan trọng vì đây là cơ quan đầu tiên khởi nguyên cho sự tiêu hoá. Thức ăn được nhai trong miệng rồi trộn lẫn với nước bọt trước khi được nuốt xuống ống thực quản để rồi tích tụ lại trong dạ dầy. Tại đây dịch thuỷ sẽ được tiết ra từ các tuyến nằm trong thành bao tử bắt đầu cho một số tác động dây chuyền từ việc bóp nát thức ăn thành những phần tử nhỏ cho tới các phản ứng hóa học kích thích bởi chất chua và các chất xúc tác khác do các tuyến bao tử tiết ra. Từ đó thức ăn sẽ được đẩy xuống ruột non để được hấp thụ vào máu nuôi dưỡng cơ thể.Ðể dễ hiểu tác dụng của bao tử trong việc tiêu hoá, chúng ta phải hình dung bao tử như là một cái túi có hình thù dài của một trái mướp nhỏ nhưng lại có khả năng tăng trưởng khối lượng để chứa đựng một số lượng thức ăn lớn nhờ vào tính cách co giãn của các bắp thịt cấu tạo nên bao tử. Khi bụng đói dung tích của bao tử khoảng chừng 50 phân khối, nhưng có thể dễ dàng chứa đựng 1200 phân khối thức ăn và thức uống sau một bữa ăn lớn. Thức ăn khi đã được nuốt vào dạ dầy sẽ tồn tại tại đây từ 3 tới 6 tiếng đồng hồ rồi mới đi xuống ruột non. Chính vì bao tử là nơi đầu tiên chứa đựng thức ăn, một số lớn các bệnh tiêu hoá thường bắt nguồn từ đây.
    TRIỆU CHỨNG
    Triệu chứng thông thường nhất là khi bị bệnh bao tử là đau bụng ở vùng chấn thuỷ ngay dưới xương ngực và trên lỗ rốn. Ðau bao tử có thể ngấm ngầm sau mỗi khi ăn hay có thể đau nhói rất khó chịu tương tự như bị dao kéo đâm thẳng vào bụng. Tiêu biểu nhất là đau bụng sau khi ăn kèm theo chứng đầy bụng và nặng bụng. Bụng trên có thể căng phồng hay trướng lên làm giới hạn số lượng thức ăn muốn ăn vào. Nhiều khi phải ợ hơi hay nhịn ăn để được thoải mái. Ngược lại cũng có người lại cảm thấy dễ chịu hơn sau khi ăn nhờ thức ăn làm cho dịu cơn đau. Cảm giác nóng rát ở chấn thuỷ kèm theo ợ chua rất thường thấy ở bệnh bao tử. Buồn nôn hay ói mửa cũng rất thường gặp nhưng nguy hiểm nếu ói ra máu hay ói nước màu nâu đậm trộn lẫn với máu bầm tương tự như bã cà phê. Biếng ăn kèm theo với mất nước đều là những triệu chứng không tốt. Nóng sốt hay tiêu chảy hiếm khi thấy ở bệnh bao tử. Lối mô tả cơn đau cùng với các chi tiết liên can tới chứng đau bụng sẽ giúp cho bác sĩ chẩn bệnh một cách mau lẹ và chính xác. Thử nghiệm phụ trợ không ngoài mục đích xác nhận chứng bao tử mà bác sĩ đã nghĩ tới trong lúc hỏi bệnh và khám bệnh. Chụp hình quang tuyến trơn hay kèm theo với uống chất cản quang sền sệt như sữa sẽ giúp tìm ra loét bao tử, bướu bao tử hay bao tử bị tắc nghẽn. Kỹ thuật chẩn bệnh với quang tuyến chỉ chính xác khoảng 70 tới 80 phần trăm các trường hợp có bệnh mà thôi. Rõ ràng và mau lẹ hơn nữa là nội soi (endoscopy) bằng cách luồn một ống nhựa nhỏ bằng ngón tay út qua miệng và thực quản để vào bao tử rồi chiếu đèn khám xét mặt trong của bao tử. Kỹ thuật nội soi rất chính xác, có thể thực hiện mau chóng an toàn và rất thoải mái cho bệnh nhân. Trong khi soi bao tử, bệnh nhân sẽ được chích thuốc ngủ nên không cảm thấy khó chịu. Qua ống soi, bướu hay loét trong bao tử có thể được cắt ra làm sinh thiết (biopsy) để khám nghiệm dưới kính hiển vi. Xuất huyết trong bao tử có thể cầm lại được trong khi nội soi nếu máu chảy ra từ vết loét hay bướu. Thử máu không thông dụng lắm trong việc chẩn bệnh bao tử trừ khi muốn xem coi bệnh nhân có bị thiếu máu hay không, nhất là ở những ai ói ra máu hay đi cầu ra phân đen.
    BỆNH SƯNG BAO TỬ (GASTRITIS)
    Bao tử bị sưng đỏ là do có quá nhiều chất chua. Các lý do thông thường làm cho bao tử tiết ra nhiều chất chua gồm có thức ăn như các chất cay (ớt, tiêu, tỏi), thức uống như là cà phê, rượu bia. Ðầu óc bị căng thẳng (stress) cũng tiết ra nhiều chất chua làm thương tổn đến màng nhầy của bao tử. Nhiễm trùng với loại vi trùng xoắn Helcobacter pylori sẽ làm cho sưng bao tử. Khi bị sưng bao tử bụng sẽ đau nhưng không nhiều lắm, thông thường là cảm giác khó chịu ở bụng trên kèm với khó tiêu và đầy hơi. Ðịnh bệnh với phương pháp nội soi là chính xác nhất vì chụp hình quang tuyến không giúp cho thấy được bao tử có bị đỏ hay không. Ngoài ra sinh thiết màng nhầy bao tử khi soi sẽ giúp tìm vi trùng xoắn chính xác hơn là thử máu. Chữa trị nhiễm trùng bao tử đòi hỏi phải uống thuốc trụ sinh như là clairthoromycin và amoxillin kèm theo với một loại thuốc giảm sự bài tiết chất chua trong bao tử như là omeprazole, lansoprazole, v.v... Các trường hợp sưng bao tử khác chỉ cần chữa với thuốc antacids (Mallox, Mylanta), ranitidine hoặc famotidine. Ðiều quan trọng là kiêng cữ các thức ăn hay món ăn uống gây ra bệnh.
    CHỨNG ÐẦY HƠI, Ợ HƠI VÀ Ợ CHUA
    Hầu như ai ai, không ít thì nhiều, cũng bị đầy hơi và ợ chua nhất là sau những bữa ăn thịnh soạn chứa nhiều dầu mỡ hay đồ chiên xào. Có người còn để ý thêm là bụng họ bị đầy hay bị căng phồng lên sau mỗi lần ăn kèm theo với cảm giác khó nuốt hay khó thở. Các triệu chứng này gây ra do cơ vòng ở đoạn cuối của ống thực quản bị hở rộng ra, không khép kín được sau mỗi lần ăn. Những ai bị bệnh tiểu đường lâu năm cũng có thể thấy các triệu chứng tương tự vì các bắp cơ của bao tử không còn cơ bóp mạnh mẽ nữa. Tệ hơn nữa, người bệnh sẽ bị ợ chua hay nóng rát ở chấn thuỷ. Khi nội soi đoạn cuối của thực quản có thể bị sưng đỏ, loét lở hay chảy máu. Thời gian chữa trị với thuốc men sẽ lâu dài hơn và cần phải kiêng cữ ăn uống kỹ càng hơn. Thuốc lá, rượu bia cũng phải ngưng. Nếu bị tiểu đường thì lượng đường trong máu phải được kiểm soát chặt chẽ hơn bằng thuốc men hay lối ăn uống. Giải phẫu để cột hay xiết chặt cơ vòng ở ống thực quản được dành riêng cho các trường hợp mà thuốc uống không làm cho giảm bệnh.
    BỆNH LOÉT BAO TỬ
    Trong các bệnh bao tử, loét lở thường gặp nhất, có lẽ vì niêm mạc bao tử quá nhậy cảm với chất chua được tiết ra từ các tuyến trong thành bao tử. Như đã trình bày ở trên, bị stress nhiều sẽ gây ra loét bao tử. Các loại thức ăn kể trên, thuốc lá rượu bia đều làm cho bệnh loét bao tử nặng hơn. Thuốc men đặc biệt là các loại thuốc uống cho giảm đau như là aspirin, ibuprofen, naproxyn, v.v... nếu uống không cẩn thận có thể gây ra loét bao tử. Khi bị loét thông thường triệu chứng đầu tiên là đau bụng. Bụng có thể đau ngấm ngầm hay đau nhói rất khó chịu. Ðôi khi cơn đau có thể lan ra sau lưng như ai lấy vật nhọn đâm thẳng vào người. Nếu chứng đau bụng kéo dài lâu ngày mà không được chữa trị, người bệnh nhân sẽ xuống cân vì không dám ăn nhiều tuy rằng đôi khi ăn vào sẽ làm dịu cơn đau. Ðặc biệt loét lở bao tử do thuốc trị đau nhức gây nên ít khi làm cho đau bụng nhưng thường gây ra chảy máu trong bao tử. Xuất huyết bao tử là một trong những biến chứng nguy hiểm của bệnh loét bao tử. Người bệnh nhân có thể ói ra máu tươi, máu bầm hay nước màu nâu giống như bã cà phê. Ði cầu thì phân sẽ đen thui như mực xạ, hay màu đỏ đậm. Nếu xuất huyết quá trầm trọng người bệnh nhân có thể ngất xỉu rồi té, sắc mặt xanh xao nhợt nhạt vì mất quá nhiều máu. Những lúc đó cần phải gọi cấp cứu ngay để được điều trị sớm. Nội soi khẩn cấp có thể tìm ra máu chảy từ loét nơi nào để còn cầm máu lại. Một biến chứng nguy hiểm khác của loét bao tử là lủng bao tử do vết loét ăn mòn lâu ngày rồi đào sâu vào thành bao tử làm cho lủng lỗ. Trường hợp khẩn cấp này phải được giải phẫu sớm.
    Ngoài việc kiêng cữ ăn uống, thuốc lá, rượu bia, thuốc trị đau nhức, chữa trị bệnh loét bao tử tương đối khá đơn giản và có nhiều kết quả nhờ có thuốc mạnh và hiệu nghiệm. Nếu bị loét bao tử thường, không kèm theo chẩy máu thì chỉ cần uống thuốc giảm bài tiết chất chua trong hai tháng là bệnh sẽ khỏi. Thuốc ranitidine, famotidine, omeprazole, lansoprazole, rabeprazole, hay là pantoprazple đều công hiệu gần như nhau khi dùng để chữa loét bao tử. Một khi đã có chảy máu bao tử hay lủng bao tử thì bắt buộc phải uống thuốc lâu dài hơn.
    BỆNH UNG THƯ BAO TỬ
    So với dân bản xứ ở đây, người Việt Nam chúng ta dễ bị ung thư bao tử hơn, có lẽ vì cơ cấu di truyền hoặc lối ăn uống, đặc biệt là các món ăn nướng than hay nướng lửa để cháy khét. Người ta nghĩ rằng thịt cá nướng có chứa nhiều chất nitrosamines dễ gây ra ung thư bao tử. Nếu cha mẹ hay anh chị em ruột bị ung thư bao tử thì những người trong gia đình cũng dễ bị ung thư này hơn. Các thế hệ con cháu của những người Nhật Bản sau khi đã di cư qua xứ Mỹ ít bị ung thư bao tử hơn. Ðiều nhận xét này cho thấy thức ăn đóng một vai trò quan trọng trong sự tạo nên ung thư bao tử. Bệnh này thông thường xảy ra ở người lớn tuổi. Tuy nhiên đã có các trường hợp ung thư bao tử ở tuổi 30. Triệu chứng ung thư bao tử không rõ ràng lắm và dễ bị lầm với các chứng bệnh bao tử khác như kể trên. Ða số các bệnh nhân bị ung thư bao tử biếng ăn uống vì bụng cứ thấy đầy và nặng nề làm cho không ăn được bao nhiêu. Lúc nào họ cũng thấy no tuy rằng không ăn và dần dần sẽ xuống cân. Ðau bụng thì ít thấy. Khi bướu mọc lớn rồi có thể rờ được cục bướu ở vùng chấn thuỷ hoặc là thấy phân có màu đen mỗi khi đi cầu. Một số ít bệnh nhân sẽ bị nấc cục thường xuyên rồi có thể ói mửa. Chụp hình quang tuyến sẽ thấy được cục bướu trong bao tử, tuy nhiên có loại bướu bao tử không mọc gồ ghề thành cục mà lại núp ẩn trong thành bao tử làm cho định bệnh khó khăn hơn. Phương pháp nội soi tìm được bướu bao tử dễ dàng và còn giúp cho làm sinh thiết cục bướu để xác nhận là cá tính của bướu hầu có thể hướng dẫn cách trị liệu. Ða số bướu ung thư bao tử cần phải giải phẫu cắt bỏ; nếu bướu đã lan qua các chuỗi hạch lân cận rồi thì cần phải được chữa trị thêm với thuốc (chemotherapy) để tiêu diệt các tế bào ung thư còn sót lại. Ung thư bao tử loại lymphoma chỉ cần chữa trị bằng thuốc thôi mà không cần giải phẫu. Tương tự như các loại ung thư khác, ung thư bao tử nếu khám phá sớm có thể chữa trị dễ dàng và lành bệnh hoàn toàn.
    (MVX sưu tầm)
    Similar Threads
  • #2

    Vi khuẩn Helicobacter pylori là nguyên nhân sinh viêm loét dạ dày – tá tràng

    Vi khuẩn Helicobacter pylori là nguyên nhân sinh viêm loét dạ dày – tá tràng và bệnh ung thư dạ dày
    Thông thường thì khi đã phát hiện có vi trùng H. pylori và có viêm dạ dày – tá tràng như chú thì tất cả các bác sĩ đều khuyến cáo điều trị tiệt trừ vi trùng.
    Như chú có nói thì đợt thuốc cách nay 3 tháng chỉ có Losec không biết có chính xác không? Điều này là rất quan trọng vì nếu vi khuẩn hiện tại vẫn còn mà đã điều trị bằng kháng sinh rồi thì chứng tỏ đây là chủng vi khuẩn kháng thuốc, và việc chọn lựa kháng sinh điều trị lần 2 cần phải rất thận trọng với sự tìm hiểu kỹ lưỡng xem lần điều trị tiệt trừ đầu tiên vi khuẩn đã kháng với loại kháng sinh nào. Chính vì vậy để tăng khả năng thành công cho lần điều trị sau thì chú cần cung cấp cho bác sĩ điều trị các thông tin về tất cả các kháng sinh đã điều trị lần trước.
    Chú không nêu rõ liều và thời gian sử dụng thuốc. Tuy nhiên nếu với liều thuốc chuẩn, thời gian điều trị 10 ngày thì với phác đồ đang sử dụng điều trị vi trùng này khả năng thành công xấp xỉ 60%. Những trường hợp thất bại điều trị sẽ được điều trị bằng phác đồ kháng thuốc.
    Nhiều trường hợp nhiễm chủng vi trùng kháng thuốc không phải do bản thân người bệnh sử dụng kháng sinh không đúng mà là do trong cộng đồng việc sử dụng kháng sinh không được kiểm soát kỹ theo toa bác sĩ, được bán khá tùy tiện (như tình hình nước ta) dẫn đến tình trạng người khác nhiễm chủng kháng thuốc và khi lây qua người khác thì vi khuẩn bị lây qua đã mang tính kháng thuốc rồi (trong trường hợp này y khoa gọi là kháng thuốc nguyên phát).
    Vi khuẩn Helicobacter pylori là nguyên nhân sinh viêm loét dạ dày – tá tràng và bệnh ung thư dạ dày. Tuy nhiên nếu chú được nội soi ở cơ sở đáng tin cậy và đã được xác nhận đúng là chỉ có viêm dạ dày – viêm tá tràng thì khuynh hướng của vi khuẩn nếu chưa được tiệt trừ thành công sẽ đi theo hướng viêm dạ dày và viêm loét tá tràng tái phát chứ hiếm khi nào đi theo hướng phát triển thành ung thư dạ dày.
    Trong trường hợp bệnh của chú, vi khuẩn có lẽ chưa được diệt thành công hơn là tái nhiễm từ bên ngoài. Con đường lây nhiễm từ người này sang người khác chủ yếu là do ăn uống chung, lây qua nước bọt. Do đó sau khi tiệt trừ thành công thì cách tốt nhất để phòng ngừa nhiễm lại là ăn uống trong vật dụng riêng của mình.
    Nội soi dạ dày không gây nguy hiểm gì nếu được tiệt trùng kỹ lưỡng ngoại trừ cảm giác gây nôn nao khó chịu cho người bệnh. Kiểm tra hiệu quả tiệt trừ vi trùng Helicobacter pylori có hai phương pháp chính là xét nghiệm qua nội soi hoặc là không cần nội soi.
    Tuy nhiên, trong trường hợp bệnh của chú để kiểm tra hiệu quả tiệt trừ cũng có thể sử dụng phương pháp không cần nội soi như: thổi bong bóng xét nghiệm vi trùng. Cách này khá đơn giản như thổi bong bóng ở trẻ em, kết quả kiểm tra vi trùng cũng rất chính xác nhưng đắt hơn phương pháp nội soi. Phương pháp thổi bong bóng tìm Helicobacter pylori hiện đang có tại BV Đại Học Y Dược cơ sở 1A – 215 Hồng Bàng – Quận 5.
    Th.s, BS QUÁCH TRỌNG ĐỨC - Giảng viên Bộ môn Nội ĐH Y Dược TP.HCM
    Đã chỉnh sửa bởi Mayvienxu; 03-11-2010, 09:54 PM.

    Comment

    • #3

      Vết trợt hang vị

      Vết trợt hang vị

      Dạ dày ví như một "nhà kho", bạn ăn bất cứ thứ gì vào nó cũng rơi xuống nhà kho trước. Nơi đây có một loại dịch gọi là "dịch vị" làm nhiệm vụ giống như "cày vỡ" thức ăn. Mỗi ngày dạ dày tiết ra chừng 1,5 đến 2 lít dịch vị.
      Dịch vị bao gồm: acid clohydric với độ pH vào khoảng 1,5 tác dụng trực tiếp lên thức ăn làm chúng rắn cũng phải mềm, các thớ thịt nếu ta nuốt vội cũng bị mềm ra. Men pepsin có nhiệm vụ như một lưỡi dao sắc bén cắt các mối nối gọi là peptid để thịt nhuyễn ra giống như bạn cho vào máy xay.
      Cùng lúc ấy thì dạ dày chuyển động, co bóp để dịch vị thấm đều, tác dụng hết vào các phần thức ăn. Nếu vậy bạn sẽ hỏi: vậy thì dạ dày cũng là cơ, sao không bị dịch vị "tiêu" luôn? Đúng vậy, bởi dạ dày có một lớp niêm mạc lót bên trong, lớp này tiết ra chất nhầy mucin có tác dụng bảo vệ, chống lại acid. Nếu vì lý do nào đó dạ dày tăng tiết acid, giảm tiết chất nhầy thì thành dạ dày bị tổn thương từ viêm sung huyết, vết trợt và vết loét. Câu chuyện thường là như vậy.
      Các nguyên nhân gây tổn thương dạ dày:
      - Vi khuẩn Helicobacter pylori: đây là nguyên nhân hàng đầu gây tổn thương dạ dày dẫn đến đầy bụng, khó tiêu là dấu hiệu bạn cảm thấy. Tuy nhiên nếu lấy dịch vị đem soi thì kẻ "nội gián" nằm ngay dưới niêm mạc dạ dày tha hồ đục khoét, tạo ra nhiều tổn thương và là nguyên nhân gây ung thư dạ dày kể cả ở người trẻ.
      - Nhiễm độc dạ dày do hóa chất tẩm ướp trong thực phẩm, do rượu bia triền miên, hút thuốc lá làm chất nhầy giảm hẳn, mất khả năng bảo vệ.
      - Ăn uống vô tội vạ, giờ giấc linh tinh, bữa no căng rốn, bữa nhịn đói khiến sự bài tiết dịch vị hỗn loạn, mất cân bằng thường tăng tiết acid tạo ra loét.
      - Căng thẳng thần kinh làm thần kinh phế vị (đi vào dạ dày) bị kích thích làm tăng tiết dịch vị gây ra tổn thương viêm loét.
      - Một số thuốc như aspirin, corticoid, ibuprofen có thể gây ra kích ứng gây viêm dạ dày cấp.
      Trở lại vấn đề của bạn. Nếu bác sĩ soi dạ dày thông báo có vết trợt ở vùng hang vị thì cần thêm một bước xác định có vi khuẩn không. Khi tìm ra thủ phạm là vi khuẩn thì kháng sinh điều trị sẽ hữu hiệu. Trong y học việc tìm nguyên nhân hay ta gọi là thủ phạm đích thực mới giúp bác sĩ điều trị đúng.
      Trong những điều tôi liệt kê ở trên bạn nên rà soát xem mình vướng vào nguyên nhân nào để từ bỏ (rượu, bia, thuốc lá, cách ăn uống..). Chỉ có như vậy mới mong điều trị có kết quả.
      Đã chỉnh sửa bởi Mayvienxu; 03-11-2010, 09:54 PM.

      Comment

      • #4

        Bệnh tuyến tiền liệt

        Bệnh tuyến tiền liệt
        Tuyến tiền liệt là tuyến gì? Nằm ở đâu trong cơ thể và phát sinh những bệnh gì? Ung thư có triệu chứng gì?

        Các phương pháp theo dõi và chữa trị…
        Tuyến tiền liệt là một tuyến của hệ sinh sản nam. Trong khoảng 7 tuần lễ đầu của thời kỳ bào thai, cơ quan hóa sinh dục dục của hai giời nam nữ có bề ngoài giống nhau, sau đó mới biệt hóa và phát triển hình thái đặc thù, cho từng giới cả bên trong lẫn bên ngoài. Tuyến tiền liệt có kích thước như quả hạt dẻ, to, dẹt, chỉ có ở nam giới, nằm trước trực tràng, ngay dưới bàng quang và bao quanh ống niệu đạo, gồm hai múi. Tuyến tiền liệt (TTL) chính là vết tích của tử cung còn sót lại, thường không được biết đến trừ phi nó to ra khi đã có tuổi.Ở tuổi trưởng thành thường có kích thước rộng 4cm x 3 cm cao x 2,5 cm dầy, có khối lượng từ 15 – 25g, tiết ra chất nhờn và tạo nên một số thành phần của tinh dịch. Dọc theo thân của TTL có các chuỗi mạch – thần kinh (vasculo – nerveux) kích thích sự cương dương của dương vật. Bệnh lý TTL thường gặp là viêm, phì đại lành tính và ung thư.
        Viêm tuyến tiền liệt
        Thường xảy ra ở người có tuổi nhưng cũng có khi ở người trẻ. Nguyên nhân chính thường do virus hoặc vi khuẩn. Viêm TTL bao gồm nhiều thể từ nhiễm khuẩn cấp cho tới hội chứng đau mạn tính TTL. Hội chứng này có bốn thể chính: Viêm TTL do nhiễm khuẩn cấp, ít gặp nhất nhưng lại dễ chẩn đoán và điều trị nhất. Bệnh cảnh: Xảy ra đột ngột, trong nước tiểu có nhiều bạch cầu và vi khuẩn. Sốt, gai rét, đau vùng thắt lưng và vùng sinh dục, có cảm giác nóng rát hay đau khi đái.
        Viêm TTL mạn tính:
        Cũng do nhiễm khuẩn nhưng không xảy ra đột ngột. Chỉ có triệu chứng nhiễm khuẩn bang quang hay tái diễn với cùng loại vi khuẩn. Nguyên nhân có thể do một khuyết tật ở TTL nên vi khuẩn hay có ở đường tiết niệu. TTL thường bình thường hay đau khi khám.
        Hội chứng đau mạn tính vùng tiểu khung và viêm mạn tính TTL không do nhiểm khuẩn là thể thường gặp nhất nhưng cũng chưa được hiểu rõ nhất. Có thể gặp ở mọi lứa tuổi ở nam, từ tuổi vị thành niên muộn trở đi (từ 17 tuổi), các triệu chứng hết rồi lại tái diễn một cách tự nhiên, có thể có dấu hiệu viêm hay không. Trong thể viêm, nước tiểu, tinh dịch và các dịch của TTL không thấy bằng chứng của vi sinh vật gây bệnh nhưng lại có chứa những loại tế bào mà cơ thể thường tạo ra để chống lại sự nhiễm khuẩn. Được chẩn đoán là viêm TTL mà lại không có triệu chứng viêm khi người bệnh không thể hiện triệu chứng gì nhưng vẫn có các tế bào chống lại sự nhiễm khuẩn trong tinh dịch. Thường phát hiện ra một cách tình cờ khi thầy thuốc tìm nguyên nhân hiếm muộn hay khi làm tét phát hiện ung thư TTL. Viêm TTL không phải là bệnh lây truyền, đại đa số trường hợp không lây lan qua quan hệ tình dục.Trong một số trường hợp hiếm gặp, viêm tuyến tiền liệt thường phối hợp với những biến đổi về tần số xuất tinh.
        Triệu chứng bao gồm đau lưng, đau vùng tiểu khung, xuất tiết dịch đục ở dương vật, thay đổi về tiểu tiện. Viêm tuyến tiền liệt do vi khuẩn thì điều trị bằng kháng sinh. Viêm tuyến tiền liệt không do vi khuẩn thì điều trị bằng phương pháp xoa bóp. Thầy thuốc cho ngón tay qua trực tràng rồi ép nhịp nhàng vào tuyến tiền liệt.
        Phì đại lành tính tuyến tiền liệt
        Là u thường có nhất ở nam giới. Ở tuổi trưởng thành, tuyến tiền liệt nặng khoảng 20 gam. Ở một số người tuyến tiền liệt nhỏ đi nhưng đa số trường hợp tuyến phì đại và trở thành u lành. Đối với nam giới trên 50 tuổi, tỷ lệ này ở Việt Nam là 50 – 60% và 70 – 80% trên thế giới. Hai yếu tố quan trọng gây u lành tuyến tiền liệt là tuổi và testosteron.Phì đại lành tính TTL là loại bệnh lý chính đứng hàng thứ 2: TTL phát triển chèn ép vào niệu đạo và gây ra nhiều vấn đề tiết niệu như hay đi tiểu, dòng nước tiểu yếu, đôi khi dừng và nhỏ giọt. Vì TTL vẫn phát triển suốt thời kỳ trưởng thành cho nên phì đại TTL rất hay gặp ở nam giới ngoài tuổi 50 và nam giới có tuổi cũng có nguy cơ cao bị ung thư TTL tuy có ít hơn. Thăm khám qua trực tràng để đánh giá kích thước và độ cứng của TTL, siêu âm hay chụp X-quang bang quang là những thăm dò thường làm.
        Phì đại TTL cũng có thể dẫn đến các vấn đề về tiết niệu như viêm TTL. Đến tuổi 60, nhiều nam có những dấu hiệu phì đại TTL. Đến tuổi 70, hầu hết nam có TTL to ra ở mức độ nào đó. Trong trường hợp xấu nhất, phì đại TTL có thể làm cho bang quang yếu đi, nhiễm khuẩn bang quang hay thận, tắc dòng tiểu và suy thận. Sự thực là một số nam bị ung thư TTL cũng đã bị phì đại TTL nhưng 2 bệnh không nhất thiết liên quan với nhau. Phần lớn nam giới bị phì đại TTL không phát triển thành ung thư TTL nhưng vì các triệu chứng sớm của 2 bệnh này giống nhau nên thầy thuốc cần đánh giá cả hai.Các thể bệnh TTL có thể có các triệu chứng tương tự, ví dụ viêm và phì đại TTL đều hay đi đái nhiều, buồn đái khẩn cấp; có người bị phì đại TTL bị khó đái lúc đầu, người khác lại bị đái đêm hay có người bị ung thư TTL lại không hề có triệu chứng gì ở giai đoạn đầu.
        Bị viêm và phì đại TTL không tăng khả năng vị ung thư TTL; nhưng cũng có khi đồng thời bị cả hai thể bệnh. Vì thế mọi nam giới ngoài 45 đều nên kiểm tra hàng năm TTL bằng PSA và thăm khám qua trực tràng. Ba quan ngại thường gặp nhất ở nam là đái đêm nhiều, buồn đái khẩn cấp và bí đái. Tuy nhiên, vì có nhiều lý do gây tăng PSA nên nếu nghi ngờ ung thư thì làm sinh thiết.
        Triệu chứng lâm sàng chủ yếu của bệnh là rối loạn tiểu tiện. Mức độ rối loạn nặng hay nhẹ thông qua những biểu hiện sau trong một tháng theo dõi:
        - Cảm giác vẫn còn nước tiểu trong bàng quang sau mỗi lần đi tiểu xong?
        - Sau khi tiểu xong phải đi tiểu lại trong khoảng thời gian chưa đến 2 giờ.
        - Đang đi tiểu thì bị ngừng đột ngột rồi lại đi tiểu tiếp?
        - Có bao nhiêu lần không thể nhịn được tiểu?
        - Có bao nhiêu lần thấy tia nước tiểu yếu?
        - Có bao nhiêu lần phải rặn gắng sức mới tiểu được?
        - Trong một đêm thường phải đi tiểu mấy lần?
        Không có bệnh khi trả lời “không” ở tất cả các biểu hiện trên. Nếu có một số hay thường xuyên những triệu chứng kể trên cần phải đến ngay cơ sở y tế để khám và điều trị.Điều trị nội khoa u lành tuyến tiền liệt bằng cách sử dụng một trong các thuốc ức chế sản xuất testosteron, thuốc ức chế phát triển, thuốc ức chế thụ thể adrenergic có thể phối hợp với thuốc ức chế sản xuất testosteron. Trong những trường hợp u quá to (> 60 gam), có phối hợp sỏi bàng quang, sỏi thận… cần phải điều trị ngoại khoa.
        Ung thư tiến liệt tuyến
        Là bệnh lý hay gặp nhất ở nam giới. Ung thư TTL xảy ra khi các tế bào của TTL đột biến và sinh sôi phát triển nhanh không thể kiểm soát; những tế bào này có thể lan xa (gọi là di căn) ra các bộ phận khác của cơ thể, nhất là xương. Các hạch bạch huyết, trực tràng và bàng quang. Ung thư TTL có thể gây đau, khó đái, rối loạn chức năng cương dương và nhiều triệu chứng khác. Có nhiều yếu tố liên quan đến sự phát triển ung thư TTL, trong đó có yếu tố gien và chế độ ăn uống. Năm 2008, có công trình nghiên cứu nhận thấy finasteride giảm được tỷ lệ ung thư TTL khoảng 30%.
        Nhiều nam giới lo sợ không chỉ vì bệnh đe dọa tính mạng mà còn đe dọa cả cuộc sống tình dục; hậu quả của nhiều phương pháp điều trị có thể ảnh hưởng tới vấn đề kiểm soát bàng quang và chức năng cương dương. Nếu được phát hiện sớm, khi ung thư mới chỉ giới hạn ở tuyến thì khả năng điều trị mới có kết quả với tác dụng phụ tối thiểu. Khi ung thư đã lan ra ngoài tuyến thì việc điều trị khó khăn hơn. Tuy nhiên vẫn có những phương pháp điều trị giúp kiểm soát ung thư TL.
        Càng cao tuổi thì nguy cơ bị ung thư TTL càng tăng, 70 tuổi trung bình nam giới Mỹ được chẩn đoán là ung thư TTL (ở độ tuổi 50, khoảng một phần ba nam giới đã có một số tế bào ung thư ở TTL đến tuổi 80, số này tăng lên khoảng ba phần tư). Theo dõi sự phát triển của TTL bằng cách khám qua trực tràng hàng năm là rất cần thiết cho những người trên 40 tuổi, đó là khuyến cáo của Hội Ung thư Mỹ. Cũng còn phương pháp mới là khám bằng siêu âm qua trực tràng.
        Ung thư TTL là thường gặp nhất và là nguyên nhân gây tử vong thứ hai do ung thư ở Mỹ sau ung thư da. Ở Mỹ, khoảng 11 người thì có thể 1 bị bệnh này và hàng năm số bệnh nhân chết khoảng 25.000 người. Tiên lượng tốt nếu được chẩn đoán và điều trị sớm.
        Giai đoạn đầu của ung thư TTL cũng không có triệu chứng gì, vì thế khi bệnh nhân đến khám thì tỷ lệ đã có di căn tới 40% và tỷ lệ tử vong chiếm hàng thứ ba sau ung thư phổi và ung thư đại – trực tràng ở nam giới cao tuổi.
        Cần nhớ rằng ung thư TTL tác động đến nam giới nhiều nhưng không phải gây nhiều tử vong cho nam giới vì theo Viện nghiên cứu về ung thư Quốc gia Mỹ thì khoảng một phần năm nam giới Mỹ được chẩn đoán là bị ung thư TTL nhưng chỉ có 3% nam giới Mỹ tử vong. Tại sao con số được chẩn đoán là ung thư TTL lại nhiều hơn số tử vong đến thế? Chỉ có câu trả lời là ung thư TTL tiến triển chậm hơn nhiều so với nhiều loại ung thư khác. Nhiều nam giới đã chung sống với nó trong nhiều năm. Nhiều người khác cố gắng không điều trị mà chỉ theo dõi kỹ diễn biến bệnh, một phương pháp gọi là “chờ đợi nhưng theo dõi tích cực”: Chiến lược đó là hàng năm kiểm tra TTL; khám trực tràng bằng tay và làm tét xác định nồng độ PSA (sau tuổi 50) để phát hiện sớm ung thư TTL, khi đó việc điều trị có hiệu quả nhất. Nhiều thầy thuốc cũng coi tét PSA và khám trực tràng là phương pháp để tầm soát ung thư TTL cũng như để theo dõi sự tái phát.
        Như trên đã nói, ung thư tuyến tiền liệt thường không có triệu chứng gì vào giai đoạn sớm, ngoài những thay đổi có thể phát hiện thấy khi thăm khám trực tràng bằng tay hoặc siêu âm hoặc tình cờ phát hiện ra PSA tăng. Tuy nhiên, đôi khi ung thư TTL cũng gây ra các triệu chứng thường tương tự như phì đại lành tính TTL.
        Những dấu hiệu cần lưu ý bao gồm: Khi đái, dòng nước tiểu không còn mạnh như trước; dò rỉ nước tiểu; đái dắt hoặc đái nhiều lần; đái đau; nước tiểu có lẫu máu; đái đêm; đau vùng tiểu khung; đau bụng dưới.
        Một nguồn khác cho thấy bệnh ung thư TTL tiến triển ở đa số đàn ông với tốc độ chậm tới mức cho đến cuối đời cũng khong có bất cứ dấu hiệu nào. Sự thật một nửa số đàn ông 80 tuổi đều có tế bào ung thư trong TTL thế nhưng đa số không chết vì bệnh này (Theo N and Z số 16/08).
        Ung thư TTL hay kết hợp với rối loạn chức năng tiểu tiện vì tuyến bao quanh phần niệu đạo nằm trong tuyến. Do đó những thay đổi ở tuyến có ảnh hưởng trực tiếp đến chức năng tiết niệu.
        Ung thư TTL đã tiến triển có thể lan tới các bộ phận khác của cơ thể và gây thêm các triệu chứng. Các triệu chứng thường gặp nhất là đau xương, thường đau ở cột sống, tiểu khung hay xương sườn. Ung thư di căn tới các xương khác như xương đùi (thường ở phần gần trung tâm của xương), di căn tới đốt sống cũng có thể gây chèn ép ống tủy, làm cho chân yếu, són đái, són phân.
        Cần phân biệt hai loại ung thư TTL:
        Loại ung thư TTL không gây ra dấu hiệu hay triệu chứng gì suốt cả đời, chỉ đến khi chết, mổ tử thi mới phát hiện ra. Loại ung thư này không đe dọa tuổi thọ hay chất lượng sống và không cần điều trị.
        Loại ung thư làm cho TTL phát triển to đến mức có triệu chứng và có nồng độ PSA tăng, khám trực tràng có thể sờ thấy, loại này tiềm ẩn tiên lượng xấu và có thể có diễn biến nghiêm trọng nếu không được điều trị./.
        Theo Tri thức trẻ

        Comment

        • #5

          Vì sao bị xuất huyết dưới da?

          Gần đây, tôi thấy trên phần mềm ở tay và ở đùi xuất hiện những vết thâm, khi ấn vào không đau và không phải do va đập mạnh. Xin hỏi tôi bị bệnh gì?
          Bình thường, trong cơ thể, máu tuần hoàn trong lòng các mạch máu. Khi máu (chủ yếu là hồng cầu) thoát ra khỏi thành mạch do mạch máu bị tổn thương sẽ gây hiện tượng xuất huyết, biểu hiện trên da là những vết thâm như chị mô tả. Tuy nhiên bạn cần mô tả kỹ hơn đó là những nốt tím (có đường kính khoảng một vài milimet, có thể to hơn nhưng đường kính không quá 1cm, màu đỏ, phẳng với mặt da) hay mảng tím hỗn hợp (có đường kính lớn hơn 1cm, không nổi gờ trên mặt da, không ngứa, không đau). Chị cũng cần quan sát màu sắc của những vết xuất huyết này để đánh giá tính chất của chúng. Nếu các nốt xuất huyết có màu sắc đồng đều nói lên tính chất cấp tính hoặc mới mắc, màu sắc không đồng đều nói lên tính chất mạn tính. Nguyên nhân gây ra những vết xuất huyết này có thể kể đến do các bệnh nhiễm khuẩn, do thiếu vitamin C, PP, do mắc phải bệnh miễn dịch, dị ứng như viêm thành mạch dị ứng hay mắc một số bệnh nội khoa như lao, đái tháo đường..., mắc bệnh về tiểu cầu như giảm tiểu cầu nguyên phát, suy nhược tiểu cầu. Do vậy, để xác định chính xác nguyên nhân gây ra biểu hiện này,bạn cần đến bệnh viện có chuyên khoa mạch máu hay huyết học để khám bệnh.
          BS. Dương Cường
          - Qua mô tả trong thư có lẽ bạn đã có xuất huyết dưới da một vài lần và việc bác sĩ tiêm vitamin C là cần thiết vì để tăng cường sự bền vững của thành mạch nhưng nguyên nhân gây chảy máu là gì thì vẫn chưa biết được chính xác. Nếu cứ lâu lâu hay bị lại thì chắc là bạn thực sự đã có một loại rối loạn gì đó về huyết học (ở hệ thống đông máu, cấu trúc thành mạch, các bệnh lý miễn dịch - dị ứng...) mà các loại bệnh như vậy thì có rất nhiều, do vậy bạn cần được khám tỉ mỉ hơn tại các trung tâm có chuyên khoa về các bệnh máu và có thể cần làm thêm một số xét nghiệm chuyên khoa sâu. Bạn nên đi khám sớm để có thể phát hiện và có những biện pháp can thiệp kịp thời, đúng lúc hơn.
          TS Bùi Mạnh Hà
          Đã chỉnh sửa bởi Mayvienxu; 07-11-2010, 12:09 AM.

          Comment

          • #6

            Những vấn đề sức khỏe thường gặp của nam giới

            Những vấn đề sức khỏe thường gặp của nam giới

            Bước qua tuổi 40, đa số đàn ông cảm thấy cơ thể có sự thay đổi rõ rệt so với lúc trẻ. Dấu hiệu thường gặp nhất là mỗi khi đọc, họ phải để sách, báo thật xa hoặc đeo kính lão thì mới thấy rõ. Nguyên nhân là mắt đã bắt đầu lão hóa do phải làm việc suốt nhiều năm. Sau đây là những vấn đề sức khỏe thường gặp khác của nam giới ngoài 40 tuổi.

            Cao huyết áp

            Một ngày nào đó, nếu đột nhiên bạn cảm thấy nhức đầu dai dẳng trong nhiều giờ, chạy bộ xa nhanh mệt thì đó là lúc bạn cần lưu ý đến chỉ số huyết áp của mình. Qua hàng chục năm làm việc, mạch máu của bạn bắt đầu cứng lại. Nếu máu lưu thông khó khăn hơn, áp lực tăng thì rất có thể bạn bắt đầu bị cao huyết áp. Về đo huyết áp, bạn cần đo lúc nghỉ (ít ra là 5 phút), ngày 3 lượt: sáng, trưa, chiều, mỗi lượt đo 3 lần. Nếu chỉ số huyết áp trung bình của bạn trên 140/90mmHg, nghĩa là bạn bị cao huyết áp.

            Đây là bệnh nguy hiểm với mọi lứa tuổi, nhất là khi bạn đã quá tuổi 50 - 60. Nó gây ra các biến chứng đột ngột, đe dọa tử vong như: nhũn não, xuất huyết não. Do vậy, khi huyết áp bắt đầu cao, bạn nên đi khám, cân lại trọng lượng xem mình có béo phì không.
            Kiểm tra huyết áp.
            Muốn tránh huyết áp cao, bạn nên bớt ăn mặn, bớt chất béo và năng tập thể dục hàng ngày. Thử đi xe đạp mỗi ngày độ vài km, bỏ hẳn xe máy, có thể huyết áp sẽ trở lại bình thường mà không cần đến viên thuốc nào cả. Các môn đi bộ, chạy bộ không giảm được huyết áp nhiều, còn môn cầu lông, tenis chỉ càng làm huyết áp tăng thêm.

            Bệnh gút

            Nếu bạn có thể trạng hơi béo, thích ăn chất béo, cần nghĩ đến bệnh gút khi thấy đau khớp (nhất là các khớp chi dưới) hoặc khi khớp gốc ngón chân cái sưng, đỏ, đau về sáng. Bạn nên thử máu và có thể sẽ thấy lượng acid uric máu trên 7mg%.

            Xơ gan

            Nhiều bạn có quan niệm sai lầm chỉ rượu mới có hại, còn bia rất bổ và tốt cho sức khỏe. Thực ra 3 ly bia cũng có tác hại bằng 1 ly rượu. Nếu uống quá nhiều rượu, bia, gan bạn sẽ bị nhiễm mỡ. Ở giai đoạn đầu, bệnh còn dễ chữa nếu bạn kiêng hẳn bia rượu. Nếu vẫn tiếp tục uống, bạn sẽ bị xơ gan, vô phương cứu chữa.

            Đái tháo đường

            Vào tuổi này, bệnh đái tháo đường hay xuất hiện ở người béo phì. Nhiều bạn cứ tưởng rằng ăn nhiều đường, chất ngọt thì sẽ mắc bệnh. Thực ra, cơ thể chúng ta có một cơ chế điều hòa thật hữu hiệu. Nếu bạn ăn đường nhiều, phần dư sẽ được dự trữ ở gan dưới dạng glycogen, khiến lượng đường trong máu lúc nào cũng là 1g/l. Khi bạn ăn ít đi, cơ thể sẽ lấy glycogen dự trữ ở gan ra dùng lại dưới dạng glucose.

            Bệnh đái tháo đường xuất hiện khi cơ chế trên bị rối loạn. Bạn phải uống thuốc hạ đường huyết hàng ngày suốt đời nếu không muốn bị các biến chứng tai hại về: thần kinh, mắt, thận… rất khó chữa.

            Các bệnh do thuốc lá

            Bạn nghiện thuốc lá? Nên bỏ sớm nếu muốn sống lâu. Thuốc lá là nguyên nhân gây: ung thư phổi, nhồi máu cơ tim, khí thũng phổi, tâm phế mãn, tắc các mạch máu đầu chi…

            Trong bệnh nhồi máu cơ tim, một phần mạch vành mang máu nuôi cơ tim bị bít tắc, gây hoại tử cơ tim. Khi tim co bóp, phần cơ hoại tử sẽ bị thủng, gây vỡ tim. Máu lan tràn rất nhanh vào lồng ngực làm bệnh nhân tử vong đột ngột.

            Các bệnh do làm việc nặng

            Đừng bao giờ làm quá sức mình. Nếu không, đến một ngày nào đó, sau khi khiêng nặng, bạn sẽ bị cụp xương sống và đứng lên không được. Chứng đau thần kinh tọa hoặc thoát vị đĩa đệm gây chèn ép thần kinh tọa cũng có thể xảy ra sau khi gắng sức. Cơn đau này đặc biệt khởi đầu từ một bên hông, lan qua mông xuống một bên chân, bàn chân.

            Mất ngủ

            Càng nhiều tuổi, bạn càng thấy giấc ngủ mình ngắn dần, hay thức dậy sớm (3 - 4 giờ sáng). Điều đó báo hiệu bạn đã bị chứng mất ngủ ở người cao tuổi. Nên tắm nước ấm, tập thể dục nhẹ, không ăn trái cây lúc chiều tối, ngủ nơi yên tĩnh, tránh đọc sách hay xem phim căng thẳng, bạn sẽ ngủ tốt hơn.

            Đục thủy tinh thể

            Nếu bạn cảm thấy mắt mờ dần, không còn nhìn xa hay gần được nữa thì có thể bạn đã bị cườm (đục thủy tinh thể), phải đến khám bác sĩ. Khi cườm đã chín hay già, bác sĩ sẽ mổ lấy thủy tinh thể đục ra và đặt vào một thủy tinh thể nhân tạo, giúp bạn trông rõ trở lại.

            Thoái hóa khớp

            Sau bao năm hoạt động, khi đến tuổi này, các khớp xương của bạn bắt đầu bị lão hóa. Nếu cảm thấy đau lưng, mỏi gối, có thể bạn đã bị thoái hóa khớp. Việc uống thuốc kháng viêm sẽ giúp giảm đau phần nào nhưng bệnh thoái hóa khớp ở người cao tuổi không sao khỏi hẳn được.

            U xơ tiền liệt tuyến

            Nếu tình cờ bạn cảm thấy tiểu khó, sức rặn yếu đi, hãy đi siêu âm hoặc khám bác sĩ ngoại khoa để phát hiện sớm bệnh u xơ tuyến tiền liệt. Khi được phẫu thuật cắt bỏ khối u xơ chèn ép ống thoát tiểu, bạn sẽ đi tiểu thoải mái ngay. Bạn cũng có thể vô tình thấy một khối u mềm ở bìu hay bẹn, đó là do cơ thành bụng đã yếu, gây bệnh sa ruột hay thoát vị. Không có gì phải lo ngại, hãy đến khám bác sĩ ngoại khoa. Bác sĩ sẽ mổ kéo ruột lên và may thành bụng chắc lại.

            Ung thư dạ dày

            Cũng vào tuổi này, khi bạn thấy ăn uống không còn ngon, đôi lúc muốn nôn, ngày càng thiếu máu, da nhợt nhạt, cần nghĩ ngay đến một bệnh ác tính là ung thư dạ dày. Phải chụp hình kiểm tra dạ dày để phát hiện bệnh thật sớm. Đừng để quá trễ, đến khi sờ thấy một khối u cứng ở bụng thì bác sĩ đã không thể giúp gì cho bạn được.

            Khả năng tình dục suy giảm

            Nếu thấy quan hệ tình dục không còn thoải mái, bạn không nên mặc cảm rồi tự mua viagra dùng. Do viagra là thuốc giãn mạch nên cần hết sức cẩn thận với người có tiền sử cao huyết áp, tim mạch. Nếu dùng không đúng, nó có thể gây đột tử.

            BS. ĐẶNG QUỐC BẢO - skđs
            Đã chỉnh sửa bởi Mayvienxu; 05-11-2010, 05:58 PM.

            Comment

            • #7

              Tìm hiểu Vi Khuẩn HELICOBACTER pylori

              I / Tìm hiểu Vi Khuẩn HELICOBACTER pylori Là Cái Gì ?
              Vi khuẩn H. pylori là vi sinh vật hình xoắn không . Chúng có chiều dài khoảng 0,3-0,5 μg. Chúng sinh sản chậm nhưng di chuyển nhanh và thích oxygen. Đến nay, các nhà khoa học đã khẳng định H. pylori gây ra những bệnh viêm & loét dạ dày, ung thư bạch huyết loại tế bào B của dạ dày.
              Người ta tìm thấy H. pylori trên bề mặt của màng nhầy hoặc nằm trong chất nhờn của dạ dày. Một số ít vi khuẩn này nằm bên trong các tế bào nhưng chúng rất quan trọng vì chúng tránh được kháng sinh và gây ra phản ứng viêm sưng rất mạnh. Đặc biệt là chúng tạo ra rất nhiều phân hóa tố urease. Phân hóa tố này giúp chúng sống trong môi trường acid. Phân hóa tố này cũng là đặc tính đặc biệt của vi khuẩn này. Vi khuẩn này mọc trong môi trường cấy rất chậm nên chúng gâybệnh mãn tính. Chính vì lẽ này, vi khuẩn gây ra rất nhiều bệnh. Trong các bệnh đó, ung thư dạ dày, ung thư bạch huyết, nhồi máu cơ tim, tai biến mạch máu não…
              Vi khuẩn H. pylori có 1 đầu và 1 đuôi với một chùm 5-7 sợi lông . Với hình xoắn, chúng bơi lội trong lòng dạ dày nhanh chóng ở những nơi có nồng độ acid cao (pH thấp) và dừng lại nơi có nồng độ môi trường gần như trung tính (pH gần bằng 7). Chúng bám vào những tế bào và tiết ra rất nhiều phân hóa tố urease. Phân hóa tố này thủy phân urea thành ammonia dùng để dung hòa acid bảo vệ cho vi khuẩn. Ngoài ra, urease giúp cho vi khuẩn này lấy nguồn chất đạm từ urea. H. pylori là loài vi khuẩn sống nhờ vào chất đạm (protein) và mỡ (lipid) chứ không như các vi khuẩn khác sống nhờ vào chất đường (polysacchrides). Ở nơi nồng độ acid càng cao, vi khuẩn này càng tiết ra nhiều urease. Nhưng urease không phải chỉ là phương tiện bảo vệ và sinh sống duy nhất của vi khuẩn H. pylori.
              II- Vi Khuẩn H. Pylori truyền nhiễm như thế nào?
              H. pylori xâm nhập vào cơ thể con người qua đường tiêu hóa, người ta tìm thấy vi khuẩn H. pylori trong miếng (nước bọt). Và thống kê cho thấy sự lây lan giữa vợ chồng lên đến 70-80%. Trong khi đó, sự lây lan giữa cha mẹ và con cái là 40-50%. Điều này cho thấy sự lây lan trực tiếp qua nước miếng rất là quan trọng.
              III- CÁc triệu chứng Viêm loét dạ dày thường gặp trên lâm sàng:
              1-Viêm dạ dày cấp tính:
              Khi một người bị nhiễm một lượng lớn vi khuẩn hay khi vi khuẩn có điều kiện phát triển thuận lợi, chúng tạo ra thể bệnh cấp tính.
              Triệu chứng lâm sàng:
              - Thường người bệnh bị buồn nôn và đau vùng thượng vị của bụng.
              - Ngoài ra, người bệnh như không muốn ăn, xuống cân, mất ngủ, chóng mặt thường xuyên, và mệt mỏi như không có năng lực. Có người có ợ chua và ợ hơi nhưng có người cũng không có những triệu chứng này. Những người bệnh này có lượng acid bài tiết trong dạ dày giảm. Sau đó, lượng acid trong dạ dày có thể tăng lên.
              Sinh thiết dạ dày: Thấy nhiều tế bào bạch cầu đa nhân trung tính và nhiều vi khuẩn hình que xoắn trên màng nhầy dạ dày. Số vi khuẩn ẩn náu trong tế bào của dạ dày rất hiếm. Bệnh cấp tính này có thể biến mất sau một thời gian nhưng cũng nhiều người phải được điều trị.
              2-Viêm dạ dày mãn tính :
              Nhiễm trùng H. pylori bắt đầu từ lúc còn bé, vào khoảng 5-7 tuổi. Chúng có thể gây ra những triệu chứng đau bụng,ói mữa, và tiêu chảy giống như những triệu chứng ngộ độc thức ăn. Sau đó, vi khuẩn có thể tồn tại lâu dài dưới hình thức mãn tính hay biến mất trong cơ thể.
              Nhiễm trùng ở người lớn có thể đưa đến nhiễm trùng lâu dài có thể kéo dài suốt đời. Những thể bệnh mãn tính thường là viêm mãn tính năng động, viêm mãn tính không teo màng lót dạ dày, và viêm mãn tính trên bề mặt dạ dày. Viêm mãn tính thường không cho ra triệu chứng. Chính vì lẽ này, trước đây các loại bác sĩ lâm sàng, nội soi, bệnh lý, và quang tuyến x, không đồng ý với nhau về định nghĩa của bệnh viêm dạ dày.
              Triệu chứng lâm sàng:
              Qua sự tìm hiểu về vi khuẩn này, chúng ta thấy hiểm họa của vi khuẩn này khi sống lâu dài trong cơ thể của con người.
              - Như viêm sưng vùng hạ vị thường đưa đến loét hành tá tràng.
              - Viêm mãn tính toàn thể dạ dày với sự teo màng lót dạ dày thường đưa đến loét dạ dày, ung thư dạ dày, và ung thư bạch huyết dạ dày .
              - Viêm mãn tính không đặt biệt là những thể bệnh viêm dạ dày không có triệu chứng nhưng chúng đưa đến những bệnh rất trầm trọng của dạ dày như loét, thủng dạ dày, ung thư dạ dày và ung thư bạch huyết dạ dày.
              · Việc điều trị vi khuẩn H. pylori dù có triệu chứng hay không là không cần bàn cãi nữa. Riêng phần viêm vùng dưới van thượng vị không liên quan đến H. pylori.
              3- Các bệnh có liên quan đến Vi khuẩn H. pylori:
              - Người bệnh bị nổi mày đay mãn tính.
              - Thiếu máu do thiếu chất sắt .
              - Chứng xuất huyết dưới da không rõ nguyên do.
              IV- Làm sao biết người có bệnh H. pylori?
              Thông thường người bệnh có những triệu chứng bệnh về dạ dày như:Đau vùng thượng vị liên quan đến bữa ăn, ợ chua, ăn kém… Triệu chứng hơi thở hôi không chỉ do bệnh đau dạ dày mà ra. Có hai vấn đề khác thường gặp hơn cũng có hơi thở hôi là sâu răng (dental cavity) và viêm mủi. Ở trẻ con, những triệu chứng kém ăn, không lên cân làm chúng ta nghĩ đến nhiễm vi khuẩn H. pylori. Thường những trẻ con này hay ói mữa khi ăn và đau bụng sau khi ăn. Vì vậy trong khi điều tra bệnh chậm lớn ở trẻ con chúng ta nên để ý đến vấn đề đau dạ dày. Về thử nghiệm, chúng ta có 4 phương pháp dùng để chẩn đoán:
              1. Thử hơi thở (urea breath test)
              2. Thử máu tìm kháng thể IgG chống vi khuẩn H. pylori (H. pylori serologic test)
              3. Thử phân với PCR test (Polymerase Chain Reaction test)
              4. Nội soi (gastroscopy) và làm sinh thiết (biopsy)
              V- Độ Chính Xác Của các Phương Pháp Chẩn Đoán vi khuẩn H.Pylori :
              1/ Thử Máu Tìm Kháng Thể IgG Chống H. pylori: Khi một người nhiễm vi khuẩn H. pylori, đặc biệt bị nhiễm lâu ngày kháng thể chống vi khuẩn tăng lên. Kháng thể IgA và IgM lên xuống nhanh nên không chính xác. IgG xuất hiện nhiều đặc biệt với sự hiện diện của vi khuẩn H. pylori. Cho nên, thử nghiệm ELISA (Enzyme-Link Immunosorbant Assay test) có thể đo lường số lượng của kháng thể IgG tốt hơn. 2/
              2/ Thử Nghiệm Tìm Urea Trong Hơi Thở:
              Người ta gắn liền C13 hay C14 vào phân tử CO2 và cho bệnh nhân uống vào trong dạ dày sau khi không ăn uống gì cả, và cũng không hút thuốc khoảng 4 giờ. Bệnh nhân đợi khoảng 20 phút và thổi hơi thở của họ vào bình chứa. Sau đó, hơi thở được đo nồng độ C13 hoặc C14 trong hơi thở. Khi CO2 vào trong dạ dày và gặp phải urea do vi khuẩn H. pylori tiết ra, CO2 sẽ bị tách rời ra và C13 hay C14 được hấp thu vào trong máu. Máu đưa C13 hay C14 vào phổi và thở ra ngoài. Thử nghiệm này rất chính xác nếu bệnh nhân không uống thuốc trị đau dạ dày từ 2-4 tuần lễ. Người ta có thể lấy máu và đo nồng độ C13 cũng chính xác như thử hơi thở. C14 có phóng xạ nguyên tử nên có những bệnh nhân không thể thử nghiệm được. Thử nghiệm này được thử nghiệm chính xác trong nhiễm vi khuẩn H. pylori cấp tính và sau khi bệnh nhân đã được điều trị.
              3/ Thử Nghiệm Tìm Kháng Nguyên của Vi Khuẩn H. pylori Trong Phân (HpSA test):
              Thử nghiệm này dựa vào nguyên tắc tìm kháng nguyên trong phân của người bệnh. Họ dùng phương pháp PCR (Polymerase Chain Reaction test). Thử nghiệm này chính xác như thử hơi thở của bệnh nhân. Sau khi bệnh nhân đã được điều trị, ta phải đợi đến 12 tuần lễ mới thử nghiệm lại để kiễm soát sự thành công của điều trị.
              4/ Phương Pháp Chẩn Đoán bằng Nội Soi:
              Phương pháp này tốn kém nhiều và tùy thuộc kinh nghiệm của bác sĩ thực hiện. Cho nên, phương pháp này không được thực hiện thường xuyên. Ngoại trừ, bệnh nhân có phản ứng thử nghiệm âm tính nhiều lần nhưng có nhiều triệu chứng đau dạ dày. Bác sĩ chuyên khoa nội hay đường tiêu hoá sẽ làm khám nghiệm này.
              V- Như vậy Điều trị như thế nào:
              Trong việc điều trị H. pylori, ta phải kết hợp nhiều thứ thuốc khác nhau. Thông thường một thuốc giảm nồng độ acid trong dạ dày để các loại kháng sinh (trụ sinh) có thể tác dụng mạnh mẻ tiêu diệt các vi khuẩn.

              Comment

              • #8

                Viêm đại Tràng Mãn Tính .

                Viêm đại Tràng Mãn Tính .
                Nếu phát hện chứng đau bụng dưới , đau lâm râm kéo dài , Bụng chướng căng cứng và chì thấy cảm giác dễ chịu sau khi Trung Tiện ( Đánh hơi ) vì sau khi thoát 1 phần hơi lại tạm thời thấy dễ chịu , và lặp lại tình trạng trên kéo dài từ ngày này sang ngày khác , đặc biệt là sau khi ăn những loại thức ăn lên men như Cơm rượu nếp , sữa , các loại Mắm , rau sống , Bia .Cảm giác nặng nề .Thường xuyên tiêu chảy hoặc táo bón .Ảnh hưởng nhiều đến công việc do bụng óc ách khó chịu như buồn đi đại tiện , dù chỉ trung tiện . gây trở ngại khi giao tiếp và đôi khi Bất lịch sự ở chỗ đông người .
                1 phương thuốc điều trị hiệu quả ít tốn kém , chỉ đòi hỏi lòng kiên trì .
                Rau câu nấu đông để nguội , đặc biệt KHÔNG ĐƯỜNG , KHÔNG ĐỂ TỦ LẠNH .
                Ăn vào sáng sớm chấm với muối trắng , (hơi khó ăn lúc đầu do ta quen ăn rau câu NGỌT ) Ngày 2 chén vào lúc bụng đói , Hiệu quả bất ngờ .
                Từ sau phương thuốc này Ta có thể thoải mái ăn những thức ăn vừa kể trên. bạn nào lỡ mắc chứng này mau mau thử nghiệm ....

                VIÊM ĐẠI TRÀNG MẠN TÍNH là tình trạng tổn thương mạn tính của niêm mạc đại tràng, tổn thương có thể khu trú một vùng hoặc lan toả khắp đại tràng.
                1.Viêm đại tràng mạn là bệnh gặp khá phổ biến
                2. Nguyên nhân của viêm đại tràng mạn.
                + Di chứng của bệnh nhiễm khuẩn đường ruột cấp, thương hàn, lị trực khuẩn, lị amip và các nhiễm trùng khác.
                + Nguyên nhân dị ứng.
                + Nguyên nhân bệnh tự miễn (viêm đại tràng loét không đặc hiệu).
                + Rối loạn thần kinh thực vật (lúc đầu là rối loạn chức năng về sau thành tổn thương viêm loét...)
                + Sau các trường hợp nhiễm độc: thyroxin, asen, photpho, nhiễm toan máu, ure máu cao...
                3. Cơ chế bệnh sinh:
                + Thuyết nhiễm khuẩn: bệnh bắt đầu do nhiễm khuẩn (thương hàn, tạp trùng, trực khuẩn) gây tổn thương, để lại di chứng "sẹo" ở niêm mạc đại tràng.
                + Thuyết miễn dịch: vì một lý do nào đó niêm mạc đại tràng trở thành kháng nguyên nên cơ thể tạo ra kháng thể chống lại chính niêm mạc đại tràng của bản thân. Phản ứng kháng thể kháng nguyên xảy ra ở một vùng hoặc toàn bộ niêm mạc đại tràng gây tổn thương, đó là hiện tượng "miễn dịch tự miễn".
                + Thuyết thần kinh: sau tổn thương thần kinh trung ương và nhất là hệ thần kinh thực vật gây rối loạn vận động, bài tiết lâu ngày, gây tổn thương niêm mạc đại tràng.
                + Giảm sức đề kháng của niêm mạc đại tràng.
                Vì lý do toàn thân hoặc tại chỗ dẫn tới nuôi dưỡng niêm mạc đại tràng bị kém, đi đôi với rối loạn vận động, tiết dịch, sức "chống đỡ bệnh" của niêm mạc giảm, nên viêm loét xảy ra.
                Viêm đại tràng mạn thường là sự phối hợp của nhiều cơ chế.
                4. Giải phẫu bệnh lý:
                + Đại thể: (2 loại tổn thương)
                - Tổn thương viêm:
                Trên đại thể người ta thường thấy có các hình ảnh: niêm mạc xung huyết, các mạch máu cương tụ thành từng đám, hoặc niêm mạc đại tràng bạc màu, mất độ láng bóng. Tăng tiết nhầy ở vùng niêm mạc bị tổn thương viêm. có thể thấy hình ảnh những chấm chảy máu rải rác ở niêm mạc đại tràng.
                - Tổn thương loét:
                Trên đại thể của bệnh viêm đại tràng mạn người ta thấy hình ảnh viêm thường kèm theo với các ổ loét có thể chỉ là vết xước hoặc trợt niêm mạc, có ổ loét thực sự sâu, bờ đều mềm mại, ở đáy có nhầy, mủ, máu...
                + Vi thể:
                - Có hình ảnh viêm mạn tính: lymphoxit, tổ chức bào, tương bào tập trung hoặc rải rác ở lớp đệm của niêm mạc.
                - Các tuyến tăng sinh hoặc thưa thớt.
                - Tuỳ theo hình thái bệnh lý có thể thấy:
                Tế bào tăng tiết nhầy hoặc teo đét.
                Liên bào phủ: tăng sinh hoặc tái tạo không hoàn toàn.
                - Có thể thấy tăng tế bào ở lớp đệm.
                II. TRIỆU CHỨNG
                1. Triệu chứng lâm sàng:
                a. Triệu chứng toàn thân:Người bệnh mệt mỏi, ăn ngủ kém, chán ăn, đầy bụng, giảm trí nhớ, hay cáu gắt, có thể có sốt. Nếu bị bệnh nặng thì cơ thể gầy sút hốc hác.
                b. Triệu chứng cơ năng:
                - Rối loạn đại tiện:
                + Chủ yếu là ỉa lỏng nhiều lần một ngày, phân có thể có nhầy, máu.
                + Táo bón, sau bãi phân có nhầy, máu.
                + Táo lỏng xen kẽ nhau (viêm đại tràng khu vực).
                + Mót rặn, ỉa già, sau "đi ngoài" đau trong hậu môn.
                + Nhiều trường hợp chỉ đi ngoài phân nát.
                - Đau bụng:
                + Vị trí: xuất phát đau thường là ở vùng hố chậu hai bên hoặc vùng hạ sườn phải và trái (vùng đại tràng góc gan, góc lách). Đau lan dọc theo khung đại tràng.
                + Tính chất, cường độ đau: thường đau quặn từng cơn, có khi đau âm ỉ. Khi đau thường mót "đi ngoài" , "đi ngoài" được thì giảm đau.
                + Cơn đau dễ tái phát
                c. Triệu chứng thực thể:
                - Ấn hố chậu có thể có tiếng óc ách, chướng hơi, ấn dọc khung đại tràng đau.
                - Có thể sờ thấy "thừng xích ma" như một ống chắc, ít di động.
                2. Triệu chứng xét nghiệm:
                a. Xét nghiệm phân:
                - Có thể thấy hồng cầu, tế bào mủ.
                - Albumin hoà tan (+).
                - Trứng ký sinh trùng, amip, lamblia.
                - Cấy phân tìm vi khuẩn gây bệnh, có thể (+).
                Viêm đại tràng chức năng: thường không thấy trực khuẩn lị và ký sinh trùng
                b. Soi trực tràng (xem chi tiết phần giải phẫu bệnh).
                c. Chụp khung đại tràng có chuẩn bị
                - Có thể thấy hình ảnh viêm đại tràng mạn:
                + Hình xếp đĩa.
                + Hình bờ thẳng, bờ không rõ.
                + Hình hai bờ.
                - Cần phân biệt với các hình dị thường của đại tràng: đại tràng to, dài quá mức, các hình khuyết (trong ung thư), hình túi thừa, các polip đại tràng.
                d. Xét nghiệm máu:
                Hồng cầu, huyết sắc tố, bạch cầu, máu lắng ít thay đổi.
                III. CHẨN ĐOÁN BỆNH
                1. Chẩn đoán xác định:
                Nếu trong điều kiện ăn uống thông thường như mọi người mà hay bị bị rối loạn đại tiện là đã có thể nghĩ tới viêm đại tràng.
                + Dựa vào tiền sử: bị kiết lị, các viêm ruột cấp.
                + Đau bụng: xuất phát từ vùng hố chậu, đau quặn, hay tái phát.
                + Rối loạn đại tiện: mót rặn, ỉa lỏng, phân có thể có nhầy, máu.
                + Xét nghiệm phân:
                - Có tế bào mủ.
                - Có albumin hoà tan.
                + X-quang chụp khung đại tràng có hình xếp đĩa.
                + Soi và sinh thiết đại tràng: thấy tổn thương viêm, loét (dấu hiệu có giá trị nhất).
                2. Chẩn đoán phân biệt:
                a. Polyp đại tràng- Ở nam gặp nhiều hơn ở nữ, thường gặp ở những bệnh nhân trên 50 tuổi.
                - Thường không có triệu chứng.
                - Có thể tình cờ xét nghiệm phân thấy máu vi thể hoặc ỉa ra máu.
                - Soi đại tràng thấy polyp (dấu hiệu xác định)
                b. Ung thư đại tràng, trực tràng
                - Gặp ở nam nhiều hơn ở nữ, tuổi ngoài 40 tuổi.
                - Các bệnh của đại tràng dễ dẫn tới ung thư:
                + Polyp loại lan toả.
                + Các polyp giả, viêm đại tràng xuất huyết, sau lỵ amip.
                - Vị trí ung thư thường gặp ở trực tràng, đại tràng xích ma.
                - Triệu chứng phụ thuộc vào khối u.
                + Đau bụng không có khu trú rõ rệt.
                + Chán ăn, buồn nôn, xen kẽ táo lỏng, thường có máu trong phân.
                + Nếu ung thư ở đại tràng xích ma "đi ngoài" giả, tắc ruột.
                - Khám bụng: sờ thấy u rắn
                - Thăm trực tràng, âm đạo thấy một khối u cố định.
                - Xét nghiệm máu: hồng cầu, huyết sắc tố giảm.
                - Xét nghiệm phân có máu (vi thể)
                - Chụp khung đại tràng có baryt thấy hình ảnh dẹt, khuyết cứng.
                c. Lao ruột (lao hồi manh tràng):
                - Có hội chứng nhiễm lao.
                - Rối loạn cơ năng ruột: ỉa lỏng 2-3 lần một ngày, phân sền sệt, tình trạng iả lỏng kéo dài, có khi đỡ, có khi xen kẽ ỉa táo.
                - Đau bụng lâm râm "đi ngoài" được thì đỡ đau. Vị trí đau không cố định, khi đau quanh rốn, khi đau hố chậu phải.
                - Biếng ăn, sôi bụng.
                - Trong thể hẹp ruột, cơn đau bụng có tính chất đặc biệt.
                + Sau khi ăn bệnh nhân thấy đau bụng, khi đói bụng nổi lên các u cục và có dấu hiệu rắn bò.
                + Sau độ 15 phút nghe rõ tiếng hơi di động trong ruột và có cảm giác như hơi đã đi qua chỗ hẹp, đồng thời trung tiện được thì đỡ đau (hội chứng Koenig).
                - Khám có điểm đau ở hố chậu phải, tại đây có một khối u mềm không nhẵn, hơi đau và di động theo chiều ngang.
                - X-quang: vách manh tràng dầy cứng to ra và nhiễm mỡ nên không nhìn thấy, chỉ có một đường nhỏ của thuốc cản quang đi qua (dấu hiệu Starlinh).
                - Xét nghiệm phân không có gì đặc biệt: có máu, có mủ.
                Chú ý: ở những bệnh nhân có sốt về chiều, gầy sút đồng thời có dấu hiệu rối loạn tiêu hoá kéo dài thì cần phải nghĩ tới lao manh tràng.
                3. Tiên lượng:
                - Nếu điều trị không tốt thì sẽ đưa đến tình trạng cơ thể gầy yếu, ăn kém, có thể dẫn tới suy kiệt tử vong.
                - Nếu không điều trị đúng thì bệnh dễ tái phát, dai dẳng. Mỗi khi có những sai lầm ăn uống, lo nghĩ thì bệnh lại vượng lên.
                IV. ĐIỀU TRỊ
                Với viêm đại tràng cấp tính do vi khuẩn, amip … thì điều trị thuốc tây kịp thời và đủ liều sẽ cho hiệu quả cao.
                Tuy nhiên với viêm đại tràng mạn tính thì thuốc đông y chiếm ưu thế tuyệt đối. Thuốc Tinh Hoa Đại Tràng được bào chế từ các vị thuốc đông y có nguồn gốc thiên nhiên, sản xuất dưới dạng viên dễ uống không cần sắc. Tinh Hoa Đại Tràng điều trị tận gốc bệnh nhờ nguyên lý của các vị thuốc Hoàng đằng, Đại hoàng, Hoàng liên, Hoàng bá có tác dụng giải độc để kháng khuẩn; Hậu phác, Chỉ xác, Chỉ thực, Trạch tả thư cân để điều trị rối loạn thần kinh thực vật; Mộc hương, Bạch truật cố sáp để điều trị rối loạn phân do dị ứng và tự miễn, ngoài ra tác dụng thải độc nhờ công thức bài thuốc với tỷ lệ hợp lý là ưu điểm lớn của Tinh Hoa Đại Tràng.
                Điều trị viêm đại tràng mạn tính cần kiên trì đủ liều và đủ thời gian. Tinh Hoa Đại Tràng còn có tác dụng bổ dưỡng đại tràng nên tốt nhất hãy sử dụng tới khi nào cơ thể có cân nặng về bình thường và không còn mệt mỏi thì mới dừng thuốc.
                IV. PHÒNG BỆNH
                Ăn chín, uống sôi, không ăn những thứ ôi thiu. Tránh ăn những thức ăn mà mỗi người thấy không phù hợp với bản thân mình, có thể người này không hợp với chất tanh nhưng với người khác lại phù hợp. Rượu bia có thể dùng được nhưng không nên dùng nhiều.
                Các bệnh do thuốc lá
                Bạn nghiện thuốc lá? Nên bỏ sớm nếu muốn sống lâu. Thuốc lá là nguyên nhân gây: ung thư phổi, nhồi máu cơ tim, khí thũng phổi, tâm phế mãn, tắc các mạch máu đầu chi…
                Trong bệnh nhồi máu cơ tim, một phần mạch vành mang máu nuôi cơ tim bị bít tắc, gây hoại tử cơ tim. Khi tim co bóp, phần cơ hoại tử sẽ bị thủng, gây vỡ tim. Máu lan tràn rất nhanh vào lồng ngực làm bệnh nhân tử vong đột ngột.
                Mất ngủ
                Càng nhiều tuổi, bạn càng thấy giấc ngủ mình ngắn dần, hay thức dậy sớm (3 - 4 giờ sáng). Điều đó báo hiệu bạn đã bị chứng mất ngủ ở người cao tuổi. Nên tắm nước ấm, tập thể dục nhẹ, không ăn trái cây lúc chiều tối, ngủ nơi yên tĩnh, tránh đọc sách hay xem phim căng thẳng, bạn sẽ ngủ tốt hơn.
                Cao huyết áp
                Một ngày nào đó, nếu đột nhiên bạn cảm thấy nhức đầu dai dẳng trong nhiều giờ, chạy bộ xa nhanh mệt thì đó là lúc bạn cần lưu ý đến chỉ số huyết áp của mình. Qua hàng chục năm làm việc, mạch máu của bạn bắt đầu cứng lại. Nếu máu lưu thông khó khăn hơn, áp lực tăng thì rất có thể bạn bắt đầu bị cao huyết áp. Về đo huyết áp, bạn cần đo lúc nghỉ (ít ra là 5 phút), ngày 3 lượt: sáng, trưa, chiều, mỗi lượt đo 3 lần. Nếu chỉ số huyết áp trung bình của bạn trên 140/90mmHg, nghĩa là bạn bị cao huyết áp.
                Đây là bệnh nguy hiểm với mọi lứa tuổi, nhất là khi bạn đã quá tuổi 50 - 60. Nó gây ra các biến chứng đột ngột, đe dọa tử vong như: nhũn não, xuất huyết não. Do vậy, khi huyết áp bắt đầu cao, bạn nên đi khám, cân lại trọng lượng xem mình có béo phì không.
                Kiểm tra huyết áp.
                Muốn tránh huyết áp cao, bạn nên bớt ăn mặn, bớt chất béo và năng tập thể dục hàng ngày. Thử đi xe đạp mỗi ngày độ vài km, bỏ hẳn xe máy, có thể huyết áp sẽ trở lại bình thường mà không cần đến viên thuốc nào cả. Các môn đi bộ, chạy bộ không giảm được huyết áp nhiều, còn môn cầu lông, tenis chỉ càng làm huyết áp tăng thêm
                Đã chỉnh sửa bởi hvpavchst; 14-11-2010, 05:32 PM.

                Comment

                Working...
                X
                Scroll To Top Scroll To Center Scroll To Bottom